TCCSĐT - Hợp tác công tư trong cung ứng dịch vụ công là một giải pháp tích cực nhằm thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân đồng hành cùng nhà nước trong việc thực hiện các dự án phát triển nhằm tăng cường nguồn lực, giảm áp lực chi ngân sách của nhà nước. Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho mô hình hợp tác công tư với mục đích huy động tiềm năng và thế mạnh của khu vực kinh tế tư nhân.

Về hình thức hợp tác công tư trong cung ứng dịch vụ công

Hợp tác công tư

Cho đến nay, vẫn còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất, chính xác tuyệt đối về hình thức hợp tác công tư. Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, ngày 4-5-2018 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư định nghĩa: “Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung cấp dịch vụ công”.

Như vậy, nguyên lý của PPP là sự hợp tác giữa chính quyền và các đối tác tư nhân để thiết kế, tài trợ xây dựng, quản lý, khai thác hoặc bảo tồn một dự án công ích. PPP đòi hỏi phải có sự chia sẻ trách nhiệm, quyền lực giữa nhà nước và khu vực tư nhân, với nhiều cách thức hợp tác trong nhiều lĩnh vực liên quan như: cấp nước sạch, thoát nước và xử lý nước thải, giao thông, viễn thông, năng lượng...

Hiện Việt Nam vẫn chưa có luật riêng về hình thức hợp tác công tư, tuy nhiên đây là lĩnh vực được nhà nước quan tâm, định hướng thúc đẩy trong thời gian qua, nhất là khi Đại hội XII của Đảng xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế và Hội nghị Trung ương 5 khóa XII ra Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, hợp tác công tư ở Việt Nam bao gồm các hình thức hợp đồng cơ bản sau:

Một là, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hai là, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.

Ba là, hợp đồng xây dựng - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án (nếu có) để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ để thực hiện Dự án khác.

Bốn là, hợp đồng xây dựng - sở hữu - kinh doanh (gọi tắt là hợp đồng BOO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án sở hữu và được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.

Năm là, hợp đồng xây dựng - chuyển giao - thuê dịch vụ (gọi tắt là hợp đồng BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.

Sáu là, hợp đồng xây dựng - thuê dịch vụ - chuyển giao (gọi tắt là hợp đồng BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Bảy là, hợp đồng kinh doanh - quản lý (gọi tắt là hợp đồng O&M) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.

Dịch vụ công và sự cần thiết phải hợp tác công tư trong cung ứng dịch vụ công

Khái niệm và phạm vi dịch vụ công tùy thuộc vào mỗi quốc gia. Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có của nhà nước, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật, toà án… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công công. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà nhà nước can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.

Ở Việt Nam, cách hiểu dịch vụ công hẹp hơn, bao gồm dịch vụ hành chính công (cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch…), dịch vụ sự nghiệp công (giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa… ) và dịch vụ công ích (giao thông công cộng, vệ sinh môi trường, cấp thoát nước…)(1).

Thực trạng hợp tác công tư trên địa bàn Hà Nội thời gian qua

Hà Nội là Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ của cả nước. Trước yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới, cùng với những đô thị lớn trên thế giới, Hà Nội đang đứng trước những thách thức, áp lực lớn cần giải quyết, đặc biệt là việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng khung, giao thông đô thị, công trình bức xúc dân sinh, bảo vệ môi trường.

Trong bối cảnh nguồn ngân sách có hạn, nhưng đòi hỏi của thực tế là quá lớn, Hà Nội xác định chìa khóa để giải quyết cho bài toán siêu đô thị chính là đồng hành cùng doanh nghiệp, hợp tác đầu tư và phát triển, coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố. Để triển khai chủ trương đó, mô hình hợp tác công tư được xem là một giải pháp tối ưu trong việc huy động các nguồn lực còn rất lớn trong thành phần kinh tế tư nhân để đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị.

Theo ước tính, trong giai đoạn 2016 - 2020, Hà Nội cần 250.000 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển đô thị, trong đó khoảng hơn 135.000 tỷ đồng cho các dự án trọng điểm, cấp thiết, như các tuyến đường chống ách tắc giao thông, các dự án xử lý môi trường. Những năm qua, Hà Nội rất tích cực, năng động, sáng tạo trong việc thu hút các nguồn lực cho sự phát triển của thủ đô; nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư hợp tác với Hà Nội giải quyết những vấn đề đô thị bức thiết đang đặt ra. Hà Nội đã tổ chức nhiều hội nghị hợp tác đầu tư và phát triển, những cuộc đối thoại giữa lãnh đạo thành phố với các doanh nghiệp nhằm thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển của thành phố. Trong các năm 2016 và 2017, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức các hội nghị xúc tiến đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đăng ký thực hiện các dự án theo hình thức PPP . Thông qua các hội nghị xúc tiến đầu tư này, 95 dự án đã được đề xuất.

Báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội về tình hình triển khai các dự án theo mô hình hợp tác công tư (PPP) cho biết, đến năm 2017, Hà Nội còn 115 dự án theo mô hình PPP, chủ yếu được thực hiện theo hình thức BT (xây dựng - chuyển giao). Trong 115 dự án, có 8 dự án đã hoàn thành, với tổng mức đầu tư là 13.500 tỷ đồng; 12 dự án đang triển khai, với tổng mức đầu tư là 29.000 tỷ đồng; 95 dự án đang thực hiện thủ tục đầu tư, với tổng mức đầu tư là 271.000 tỷ đồng. Đầu tháng 2-2018, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất 35 dự án thuộc nhóm ưu tiên triển khai. Trong đó, 19 dự án giải quyết ùn tắc giao thông và môi trường bức xúc dân sinh đã được thành phố báo cáo Chính phủ đề xuất một số cơ chế đặc thù để triển khai sớm. 9 dự án địa phương đã đủ quỹ đất thanh toán. 51 dự án còn lại không thuộc danh mục các dự án trọng điểm, cấp bách ưu tiên triển khai.

Qua đó cho thấy, đa phần các dự án PPP trên địa bàn thành phố theo hình thức hợp đồng BT. Trình tự, thủ tục xem xét các dự án BT tại Hà Nội là chặt chẽ, tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định, định hướng phát triển hiện hành. Đặc biệt, quá trình đề xuất, xem xét, thẩm định các dự án bảo đảm công khai, minh bạch. Trình tự xem xét một dự án BT tại Hà Nội bắt đầu từ hồ sơ đề xuất với 2 nguồn vào: một là, do cơ quan có chức năng lập để công bố, kêu gọi đầu tư; hai là, do nhà đầu tư đề xuất. Sau khi đề xuất đầu tư được phê duyệt thì hồ sơ sẽ được cơ quan nhà nước công bố rộng rãi trên cổng thông tin điện tử để cho tất cả các nhà đầu tư có thể tiếp cận được. “Tất cả các thông tin cơ bản về dự án đều phải được công khai để nhà đầu tư nắm được, đó là bắt buộc”, theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội. Nếu dự án do nhà đầu tư đề xuất, thì giao cho nhà đầu tư lập báo cáo khả thi. Nhưng không phải cứ nhà đầu tư đề xuất là được lựa chọn, mà nhà đầu tư đó chỉ được ưu tiên 5% điểm trong tổng điểm lựa chọn nhà đầu tư sau này. Giả sử nhà đầu tư đó không được chọn thì thành phố cũng không hoàn trả lại chi phí mà họ đã bỏ ra trong quá trình trước đó, ông Lương Hoài Nam, Trưởng phòng Quản lý dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cho biết(2).

Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội nhiều lần khẳng định, bất kỳ nhà đầu tư nào muốn đầu tư trên địa bàn thành phố, bên cạnh các tiêu chí, như năng lực, kinh nghiệm, nguồn lực về tài chính, cam kết thực hiện về vốn, bảo đảm chất lượng công trình đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, thì còn phải cam kết ứng trước vốn để thực hiện giải phóng mặt bằng và triển khai ngay việc đầu tư khi Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cam kết bố trí quỹ đất đối ứng. Các nhà đầu tư cũng phải cam kết ứng trước kinh phí để lập hồ sơ nghiên cứu tiền khả thi, khả thi và thuê tư vấn lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, đồng thời cam kết thực hiện dự án cụ thể; có ký quỹ để trong trường hợp nhà đầu tư thực hiện chậm, không đáp ứng yêu cầu thì phải mất toàn bộ phần tiền ký quỹ này. Đối với các dự án PPP, thành phố ưu tiên lãi vay thấp nhất. Nhà đầu tư nào có đủ năng lực, đủ nguồn lực về tài chính đều được Hà Nội chào đón tham gia làm dự án. Trường hợp có nhiều nhà đầu tư có đủ năng lực cùng mong muốn tham gia dự án, thành phố sẽ cân nhắc, lựa chọn nhà đầu tư tốt nhất, phù hợp nhất.

Để triển khai hiệu quả các dự án PPP, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của các nhà đầu tư, doanh nghiệp, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã chỉ đạo các sở, ngành tập trung ưu tiên vào các dự án, công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng, chống ùn tắc giao thông và môi trường bức xúc dân sinh. Hà Nội đã lập Tổ công tác liên ngành rà soát, lập danh mục kêu gọi các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) trên địa bàn thành phố giai đoạn 2016 - 2020; đồng thời, yêu cầu rà soát lại toàn bộ các dự án hợp tác theo hình thức BT từ trước đến nay để rút kinh nghiệm, đề xuất các hình thức quản lý hiệu quả hơn.

Có thể nói, các dự án theo mô hình hợp tác công tư của thành phố trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, đô thị, góp phần giảm thiểu ùn tắc giao thông, bảo vệ môi trường, giải quyết những vấn đề bức xúc dân sinh.

Một số vấn đề đặt ra

Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các dự án theo hình thức hợp tác công tư, Hà Nội gặp không ít khó khăn, vướng mắc, chủ yếu trên một số vấn đề sau:

Một là, vướng mắc về pháp lý. Trước lời mời gọi đầu tư của thành phố, nhiều doanh nghiệp đã nhìn thấy tiềm năng, cơ hội khi đầu tư vào Hà Nội, nhưng họ lo ngại về thủ tục, pháp lý, vướng mắc quy định hiện hành phải trải qua trình tự thủ tục, thời gian kéo dài và phức tạp. Mặc dù đã có Nghị định số 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ về đầu tư theo hình thức PPP, gần đây là Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, nhưng khi triển khai, doanh nghiệp vẫn phải phụ thuộc nhiều vào Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công… và các thông tư, hướng dẫn liên quan. Các luật này chưa quy định cụ thể để thực hiện dự án PPP, do vậy trong quá trình triển khai thực hiện còn những khó khăn, bất cập. Cùng một nội dung nhưng chịu sự điều chỉnh của nhiều luật đã làm tăng tính phức tạp, rủi ro trong quá trình triển khai các dự án cụ thể, làm giảm tính hấp dẫn đầu tư theo mô hình này.

Các quy định về PPP chưa thống nhất. Các dự án phải tuân theo pháp luật hiện hành, trong khi đó, những quy định pháp luật hiện hành chủ yếu hướng tới các dự án không thuộc mô hình PPP, nhưng các dự án PPP phải tuân thủ theo. Đặc biệt, khó khăn lớn của hầu hết các dự án PPP là việc xác định nguồn vốn hỗ trợ bù đắp thiếu hụt tài chính cho các dự án. Việc chuẩn bị đề xuất dự án đòi hỏi nhiều chi phí và nguồn lực, vì vậy, việc không có các quy định rõ ràng về các nguồn vốn bù đắp thiếu hụt tài chính khiến cơ quan nhà nước hoặc nhà đầu tư không mặn mà với việc triển khai theo mô hình PPP.

Mặc dù Nghị định số 63/2018/NĐ-CP mới ban hành và có hiệu lực với nhiều điểm mới, tiến bộ, kiểm soát chặt chẽ quá trình đấu thầu dự án theo hình thức BT, nhưng thực tế triển khai lại vướng mắc với quy định của luật chuyên ngành khác. Chẳng hạn, Điều 35 Nghị định 63/2018/NĐ-CP quy định “Quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/2.000 hoặc 1/500 (nếu có) của quỹ đất dự kiến thanh toán cho nhà đầu tư phải được lập và phê duyệt theo quy định của pháp luật trước khi báo cáo nghiên cứu khả thi được phê duyệt”. Quy định này nhằm xác định sát giá trị quỹ đất đối ứng ngay từ bước đấu thầu, tránh việc định giá đất rẻ, thất thoát tài sản công. Tuy nhiên, Luật Quy hoạch đô thị lại quy định nhà đầu tư chỉ được giao nhiệm vụ lập quy hoạch chi tiết quỹ đất sau khi được lựa chọn là nhà đầu tư thực hiện dự án, trong khi việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư được thực hiện sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ thuật - dự toán được phê duyệt.

Bên cạnh đó, hiện nay chưa có quy định và chế tài cụ thể đối với vi phạm khi thực hiện dự án PPP; quy định về lãi cho vay chưa rõ ràng trong trường hợp nhà đầu tư hoàn thành dự án BT, nhưng chậm giao quỹ đất thanh toán cho nhà đầu tư do nguyên nhân khách quan; quy định liên quan đến báo cáo đánh giá tác động môi trường…

Hai là, khó khăn trong việc thu xếp quỹ đất thanh toán cho các dự án theo hình thức hợp đồng BT. Đa số các dự án PPP triển khai trên địa bàn Hà Nội theo hình thức hợp đồng BT. Theo quy định, giá trị đầu tư các dự án BT được thanh toán bằng giá trị quỹ đất đối ứng. Tuy nhiên, tình trạng khá phổ biến xảy ra đối với các dự án BT trên địa bàn thành phố là nhà đầu tư đã hoàn thành và bàn giao công trình dự án theo thỏa thuận tại hợp đồng dự án, nhưng thành phố vẫn chưa sắp xếp được quỹ đất đối ứng cho nhà đầu tư. Điều này dẫn đến tình trạng không bảo đảm tiến độ, không kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc dân sinh. Ngoài nguyên nhân hạn chế về quỹ đất, còn một nguyên nhân khác là vướng mắc về thời điểm và phương thức xác định giá đất đối với quỹ đất dùng để thanh toán đối ứng dự án BT. Hiện nay có hai quan điểm: quan điểm thứ nhất cho rằng, cần phải xác định giá đất của quỹ đất dùng để thanh toán đối ứng dự án BT tại thời điểm phê duyệt dự án để bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư; quan điểm thứ hai lại cho rằng, giá đất đối với quỹ đất thanh toán đối ứng được xác định sau khi dự án BT đã hoàn thành. Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, tổng diện tích đất đối ứng dự kiến các dự án PPP khoảng 8.858,5ha, với số tiền ước tính xấp xỉ 119.000 tỷ đồng, nhưng Hà Nội mới chỉ đáp ứng được chưa đầy 45% nhu cầu, trong đó, riêng nhóm 35 dự án ưu tiên mới đáp ứng được chưa đầy một nửa.

Một số giải pháp

Một là, sớm ban hành Luật đầu tư theo hình thức PPP. Để góp phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, các nhà đầu tư, thu hút hiệu quả hơn nữa nguồn vốn cũng như kinh nghiệm của nhà đầu tư thông qua hình thức PPP, trong báo cáo về đầu tư theo hình thức đối tác công tư gửi Chính phủ tháng 10-2018, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội kiến nghị, đề xuất cần sớm nghiên cứu ban hành Luật Đầu tư theo hình thức PPP. Trong luật cần quy định rõ trình tự thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt dự án, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án, quản lý hoạt động kinh doanh khai thác công trình và các quy định chuyên ngành trong quản lý quy hoạch, xây dựng, đất đai đối với các dự án PPP nói chung, theo hợp đồng BT nói riêng; bên cạnh đó, cần tăng cường công khai, minh bạch thông tin, thực hiện đấu thầu rộng rãi đối với các dự án BT nói riêng; hoàn thiện hệ thống văn bản quy định chặt chẽ tiêu chí lựa chọn dựa án đầu tư theo hình thức PPP…

Tóm lại, mục tiêu chính của luật là làm sao thể chế hóa được chủ trương, quan điểm của Đảng về thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân; nâng cấp các quy định tại Nghị định hiện hành nhằm nâng cao cơ sở pháp lý của các quy định, xử lý các nội dung chồng chéo giữa các luật và bổ sung các quy định còn thiếu, hạn chế rủi ro về mặt thay đổi chính sách; nâng cao hiệu quả đầu tư theo hình thức PPP, gắn với trách nhiệm của các bên liên quan. Thực tế mô hình hợp tác công tư ở Hà Nội cho thấy, các doanh nghiệp, nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài còn e ngại, sợ rủi ro khi đầu tư vào các dự án PPP. Khung pháp lý chính là rào cản chính cho sự tham gia của các doanh nghiệp, nhà đầu tư vào hình thức này.

Thực tế cho thấy, các nghị định 15/CP/2015/NĐ-CP, Nghị định 30/2015/NĐ-CP, gần đây là Nghị định số 63/2018/NĐ-CP chỉ nhằm tháo gỡ một số vướng mắc chủ yếu, mà không thể xử lý triệt để được tất cả các vấn đề do các nghị định này chịu sự điều chỉnh của nhiều luật khác nhau, như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Doanh nghiệp. Vì vậy, mặc dù quy định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư được Chính phủ quan tâm, nghiên cứu, ban hành và sửa đổi nhiều lần, nhưng do cấp quy định là nghị định, bị ràng buộc bởi nhiều luật, nên trong quá trình thực thi còn nhiều khó khăn, bất cập, thậm chí còn để lại nhiều hệ lụy.

Hai là, kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành liên quan trao quyền tự chủ cao hơn, cơ chế đặc thù nhiều hơn cho Hà Nội trong việc giải quyết các dự án kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, công trình bức xúc dân sinh.

Hà Nội là siêu đô thị, trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước, nơi tập trung rất nhiều các dự án, công trình trọng điểm, trong đó có nhiều dự án PPP. Trong quá trình triển khai thực hiện các dự án PPP, nhiều khó khăn, vướng mắc đã nảy sinh, dẫn đến dự án bị kéo dài, chậm tiến độ. Để các dự án PPP được triển khai thuận lợi, bảo đảm tiến độ và chất lượng, trước đề xuất của Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý áp dụng cơ chế đặc thù lựa chọn nhà đầu tư cho Hà Nội từ tháng 1-2018, tiếp đó giao cho Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội xây dựng phương án lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt theo Điều 26, Luật Đấu thầu, với từng dự án cụ thể, thành phố chủ động quyết định ủy quyền theo thẩm quyền. Trường hợp khó khăn, vướng mắc, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất biện pháp xử lý, báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Việc trao cơ chế đặc thù cho Hà Nội đã rút ngắn thủ tục, quá trình lựa chọn nhà đầu tư, đẩy nhanh tiến độ kêu gọi vốn triển khai các dự án để giải quyết vấn đề bức thiết về hạ tầng đô thị, chống ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường trên địa bàn thủ đô; tăng tính tự chủ, sáng tạo, nâng cao thẩm quyền, trách nhiệm của thành phố trong xử lý, giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai các dự án PPP.

Trong thời gian tới, Hà Nội cần tận dụng được lợi thế, thế mạnh của mình để thu hút, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án PPP, nhất là khi đã được Chính phủ cho phép được hưởng cơ chế đặc thù; đồng thời, tiếp tục kiến nghị, đề xuất Chính phủ, các bộ, ngành trao quyền tự chủ, áp dụng cơ chế đặc thù nhiều hơn trong việc xử lý, giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong triển khai các dự án, công trình trọng điểm.

Ba là, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tiếp tục chỉ đạo các sở, ngành liên quan và các quận, huyện, thị xã rà soát tổng thể, xác định quỹ đất đủ điều kiện làm quỹ đất thanh toán cho các nhà đầu tư sau khi công trình được quyết toán, bàn giao và đưa vào sử dụng, trong đó ưu tiên bố trí đủ quỹ đất thanh toán cho các dự án, công trình trọng điểm. Đồng thời, cần nghiên cứu các cơ chế, giải pháp linh hoạt để bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư trong trường hợp dự án BT bị chậm thanh toán hoặc không thể thanh toán bằng tiền hoặc quỹ đất đối ứng.

Bốn là, thu hút được nhiều hơn sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài.

So với các địa phương trong cả nước, Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào các dự án PPP. Tuy nhiên, do bất cập về cơ chế, chính sách, nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài còn chưa mặn mà với hình thức này. Trong thời gian tới, khi hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, cơ chế đặc thù cho Hà Nội đã được áp dụng, sẽ là cơ sở rất thuận lợi để thành phố kêu gọi, thu hút các nguồn lực từ khu vực kinh tế tư nhân vào triển khai, thực hiện các dự án PPP, đặc biệt là phải thu hút được nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài có năng lực, kinh nghiệm, nguồn lực kinh tế lớn tham gia hợp tác với thành phố đầu tư vào các dự án, công trình theo mô hình PPP. Nếu làm được điều này, hạ tầng giao thông đô thị, các vấn đề dân sinh bức thiết sẽ sớm được giải quyết. Đây là bài toán không dễ đối với thành phố Hà Nôi, nhất là trong bối cảnh có sự cạnh tranh gay gắt hiện nay./.

-----------------------------------------------------

(1) Xem Đinh Tuấn Minh (Chủ biên): Báo cáo nghiên cứu kinh tế: Thị trường hóa cung ứng các dịch vụ công tại Việt Nam, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 2018, tr. 16
(2) Theo Thành Nam: Dự án BT giao thông tại Hà Nội: “Đề bài” rõ ràng, tuyệt đối không dàn trải, An ninh thủ đô điện tử, ngày 23-6-2018