Hoàn thiện chính sách đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Lê Thanh Khuyến Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai
19:12, ngày 02-10-2012
TCCS - Chính sách đất đai là một trong những vấn đề hệ trọng của đất nước, việc sửa đổi, hoàn thiện chính sách đất đai phải bảo đảm tính kế thừa để ổn định kinh tế - xã hội, đồng thời phát huy tốt nguồn lực đất đai cho phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Một số thành tựu đạt được trong hơn 25 năm đổi mới về chủ trương, chính sách đất đai

Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với tinh thần đổi mới đã đề ra ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vị trí đặc biệt của nông nghiệp, chủ trương đổi mới cơ chế quản lý trong các hợp tác xã nông nghiệp, phát huy triệt để vai trò chủ động của hộ nông dân, phấn đấu đưa nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa. Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 29-12-1987 là một trong những việc quan trọng khởi đầu đổi mới cùng nền kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó, tình hình sản xuất nông nghiệp và xã hội nông thôn đã có bước chuyển biến cơ bản, sản xuất lương thực có bước ngoặt lớn, năm 1989 đạt 20,5 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so với năm 1987. Vùng lương thực hàng hóa lớn đã hình thành ở tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười, Tiền Giang, Hậu Giang... Từ một nước thiếu lương thực triền miên, Việt Nam đã vươn lên hàng các nước xuất khẩu gạo lớn của thế giới. Đời sống của người dân ở nông thôn được cải thiện rõ rệt.

Các kỳ đại hội tiếp theo tiếp tục chỉ rõ, ruộng đất thuộc quyền sở hữu toàn dân, giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài; việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng ruộng đất phải được pháp luật quy định cụ thể theo hướng khuyến khích nông dân an tâm đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện từng bước tích tụ ruộng đất trong giới hạn hợp lý để phát triển hàng hóa, đi đôi với mở rộng phân công lao động và phân bố lao động gắn với quá trình công nghiệp hóa. Quy định rõ các điều kiện cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngăn ngừa tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền sử dụng ruộng đất không phải để sản xuất mà để buôn bán ruộng đất, phát canh thu tô. Mức tập trung ruộng đất vào một hộ cũng phải quy định giới hạn tối đa tùy theo vùng và loại đất...

Một mốc thời gian quan trọng là, năm 2003, để giải quyết những bất cập trong chính sách đất đai đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, Bộ Chính trị đã chỉ đạo thực hiện tổng kết 10 năm thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai để đưa ra những quyết sách tiếp tục đổi mới. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 12-3-2003 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết chủ trương tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai với 5 quan điểm đổi mới là:

- Tiếp tục khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật.

- Đất đai là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn của đất nước; quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt. Chính sách đất đai phải chú ý đầy đủ tới các mặt kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi thành viên trong xã hội đối với việc quản lý và sử dụng đất.

- Khai thác, sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực đất đai; đầu tư mở rộng diện tích, nâng cao chất lượng và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và môi trường sinh thái theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước.

- Đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động phát triển vững chắc thị trường bất động sản có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước; không tách rời thị trường quyền sử dụng đất và các tài sản gắn liền với đất; chống đầu cơ đất đai.

- Kiên quyết lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai theo luật pháp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Bảo đảm sự quản lý nhà nước thống nhất của Trung ương, đồng thời phân cấp cho địa phương, có chế tài nghiêm trong thực thi chính sách, pháp luật đất đai.

Thể chế hóa các quan điểm của Nghị quyết, Luật Đất đai năm 2003 đã có nhiều đổi mới quan trọng, trong đó trọng tâm là hoàn chỉnh các công cụ pháp luật, quy hoạch, tài chính và hành chính để bảo đảm phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện Luật Đất đai năm 2003, Chính phủ đã ban hành 20 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 12 chỉ thị và 17 quyết định, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành khác đã ban hành hơn 200 văn bản hướng dẫn tạo hành lang pháp lý khá đầy đủ phục vụ cho công tác quản lý, sử dụng đất đai. Việc tổ chức thi hành pháp luật đất đai đã được các cấp, các ngành quan tâm hơn, ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân đã có chuyển biến tích cực.

Chính sách giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài đã khuyến khích được hộ gia đình, cá nhân yên tâm đầu tư sản xuất, góp phần giải phóng sức lao động của nông dân; từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích không ngừng tăng lên. Năm 2004, giá trị sản xuất đất trồng trọt bình quân cả nước là 21 triệu đồng/ha; năm 2010 là 55 triệu đồng/ha; năm 2011, nhiều nơi đạt tới hơn 150 triệu đồng - 200 triệu đồng/ha. Nhiều mặt hàng nông nghiệp đã chiếm lĩnh được thị trường thế giới, như gạo, cà-phê, cao-su, hồ tiêu, thủy sản...

Với các quy định cho hộ gia đình, cá nhân được thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất; tổ chức kinh tế trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất được thực hiện quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất và đã được Nhà nước bảo đảm các quyền trong thực tế đã từng bước phát huy được nguồn lực đất đai, từ đó biến nguồn tài nguyên đất đai thành nguồn lực tài chính quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Việc công nhận các quyền chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn đã góp phần hình thành và phát triển thị trường bất động sản, tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các quy định này cũng đã khuyến khích việc tích tụ ruộng đất để tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với quy hoạch lại ruộng đồng, phát triển sản xuất lớn và phân công lại lao động trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại. Việc đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã tạo điều kiện cho người dân thế chấp, vay vốn mở rộng sản xuất. Ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã có một số trang trại có quy mô từ hàng chục héc-ta đến trên một trăm héc-ta. Hiệu quả kinh tế của tích tụ ruộng đất đã góp phần tăng nguồn thu ngân sách địa phương và thay đổi diện mạo của nông thôn.

Việc đổi mới phương pháp và triển khai thực hiện một cách đồng bộ quy hoạch sử dụng đất ở cả 4 cấp(1) góp phần chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp được giữ vững, bảo đảm an ninh lương thực cho giai đoạn trước mắt và lâu dài; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất(2) được đẩy nhanh, tạo cơ sở pháp lý cho người sử dụng đất thực hiện các quyền, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản. Diện tích đất chưa sử dụng của cả nước từng bước được khai thác đưa vào trồng rừng một cách hợp lý, bảo đảm yêu cầu cân bằng hệ sinh thái và bảo vệ môi trường. Góp phần phủ xanh diện tích đất trống, đồi núi trọc, giảm nguy cơ xói mòn, rửa trôi đối với đất đai, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu; khuyến khích người dân đầu tư cải tạo, bồi bổ đất, giảm nguy cơ suy thoái và ô nhiễm đất nông nghiệp, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Việc giao đất, giao rừng đã góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoái rừng nghiêm trọng. Nhu cầu đất cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; công nghiệp, dịch vụ và đô thị được đáp ứng kịp thời. Diện tích đất dành cho phát triển đô thị tăng nhanh, góp phần hình thành hệ thống mạng lưới đô thị phân bố tương đối hợp lý trên các vùng lãnh thổ cả nước.

Chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đã có bước tiến đáng kể trong việc giải quyết quyền lợi của người dân thuộc diện thu hồi đất, đặc biệt là đối với những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp. Chính sách này được sửa đổi, bổ sung kịp thời, phù hợp với thực tiễn, từng bước giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, của người thuộc diện thu hồi đất và nhà đầu tư.

Quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được bảo đảm thông qua các chính sách, pháp luật và các biện pháp tổ chức thực hiện các quy định về công bố, công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, thủ tục hành chính.

Một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện

Mặc dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng quá trình triển khai chính sách hiện hành cũng bộc lộ những điểm bất cập, tồn tại, một số vấn đề chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mặt khác, các vấn đề, như biến đổi khí hậu, gia tăng dân số, phát triển bền vững... đã và đang đặt ra những thách thức lớn cần nghiên cứu để giải quyết một cách toàn diện:

Thực hiện đúng theo quan điểm phát triển kinh tế - xã hội.

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã đưa ra quan điểm là, phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức.

Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp với hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại đồng thời bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, đặt ra những thách thức lớn trong thực tiễn quản lý, sử dụng đất đai ở nước ta trong giai đoạn tới, nếu không giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội về lâu dài. Đó là giữa nhu cầu đất cho phát triển kinh tế (công nghiệp, dịch vụ) và cho các nhu cầu xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao...); giữa duy trì đất nông nghiệp để bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và mở rộng diện tích đất phi nông nghiệp cho quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa; giữa tập trung đất cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa và việc làm, thu nhập của nông dân; giữa các bộ phận dân cư (người sử dụng đất) trong phân chia hài hòa lợi ích từ đất.

Để hóa giải được những thách thức trên, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được chú trọng hàng đầu. Mặt khác, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ, Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất. Quy hoạch sử dụng đất là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền định đoạt, quyền điều tiết nguồn tài nguyên đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch sử dụng đất đai là rất quan trọng.

Để quy hoạch sử dụng đất từng bước đi vào nền nếp, góp phần sử dụng quỹ đất hiệu quả, phù hợp, cần đổi mới phương pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong đó làm rõ nội dung quy hoạch sử dụng đất, cụ thể hóa trình tự, nội dung, tránh chồng chéo, bảo đảm tính liên vùng trong quy hoạch sử dụng đất. Phương án quy hoạch phải được khoanh định trên bản đồ và thực địa; làm tốt công tác công khai để nhân dân và các cơ quan nhà nước giám sát trong thực thi. Nâng cao năng lực dự báo của đội ngũ cán bộ làm công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Quy định rõ trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Tăng cường giám sát quy hoạch và làm tốt công tác kiểm tra việc sử dụng đất sau khi giao đất, cho thuê đất.

Nghiên cứu xây dựng cơ chế để bảo đảm giữa quản lý của Nhà nước và thị trường.

Theo đó, Nhà nước chuyển từ việc can thiệp trực tiếp vào các quá trình kinh tế sang thực hiện chức năng kiến tạo phát triển: Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập môi trường thuận lợi cho đầu tư và kinh doanh, tạo cơ chế phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ công. Một mặt, Nhà nước cần phát huy “sức mạnh tự điều chỉnh” của thị trường; mặt khác “hóa giải” được tác động tiêu cực của thị trường, bảo đảm định hướng của sự phát triển.

Nghiên cứu và từng bước thay đổi biện pháp quản lý đất đai, trong đó lấy biện pháp về kinh tế là cơ bản để nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả trong sử dụng nguồn tài nguyên đất đai. Nhà nước cần thực hiện tốt việc điều tiết theo quan hệ “cung - cầu” của thị trường thông qua hoàn thiện công cụ quy hoạch; hoàn thiện chính sách tạo quỹ đất “sạch” của Nhà nước để đưa ra thị trường; đồng thời, đổi mới hệ thống thuế có liên quan tới đất trên nguyên tắc điều tiết, như thuế vượt hạn mức từng phần theo diện tích đối với đất ở, đất sản xuất... Việc áp dụng các chính sách thuế phù hợp còn góp phần để người sử dụng đất sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm hơn, hạn chế tình trạng sử dụng lãng phí đất đai.

Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.

Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính là một trong những khâu đột phá quan trọng trong phát triển đất nước. Chính sách, pháp luật đất đai cần xem xét mở rộng hợp lý các quyền để các nhà đầu tư tham gia thị trường bất động sản, trong đó chú trọng tạo quỹ đất sạch để đấu giá quyền sử dụng đất là chủ yếu, trên cơ sở đó phát huy triệt để nguồn lực đất đai; đồng thời huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là sau khi nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).

Vai trò của Nhà nước.

Luật Đất đai đã xác định vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai. Tuy vậy, trong thực tế, tổ chức thực hiện, vấn đề này rất phức tạp và khó khăn. Vai trò của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai có lúc, có nơi còn chưa tương xứng với vai trò và quyền năng của mình, ngược lại người sử dụng đất lại đòi hỏi lợi ích vượt hơn quyền lợi của Nhà nước mà chưa thấy lợi ích toàn cục. Vì vậy, cần làm rõ quyền định đoạt và quyền điều tiết hài hòa các nguồn thu từ đất đai bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và chủ đầu tư, đồng thời tạo hành lang pháp lý để người sử dụng đất được hưởng lợi ích từ việc khai thác tiềm năng đất đai, nhất là trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường. Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đất đai bảo đảm hài hòa các lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất, của người giao lại quyền sử dụng đất và của nhà đầu tư. Trong đó, trọng tâm là Nhà nước cần điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không do đầu tư của người sử dụng đất mang lại; xây dựng các chính sách thuế liên quan đến đất đai để làm công cụ điều tiết hỗ trợ; xây dựng chính sách bồi thường hợp lý bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người thuộc diện có đất thu hồi và nhà đầu tư bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người sử dụng đất.

Trong những năm tới, thực hiện mục tiêu đưa nước ta thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhu cầu đất phi nông nghiệp sẽ càng tăng nhanh, việc thu hồi đất và chuyển mục đích sử dụng đất cho nhu cầu này là cần thiết và không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra là, việc sử dụng đất đó phải hiệu quả; đồng thời phải cải thiện được đời sống, bảo đảm được việc làm và ổn định xã hội ngay tại nơi thu hồi đất. Cần quy định rõ chế độ, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, chế tài xử lý đủ mạnh và có cơ chế giám sát chặt chẽ để các biện pháp hành chính không bị lạm dụng trong quá trình quản lý, sử dụng đất ở các địa phương. Xây dựng cơ chế khuyến khích những tổ chức, cá nhân có thể tự đầu tư trên đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; tham gia góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty, vào các dự án đầu tư, kinh doanh khi có đất bị thu hồi để hạn chế các can thiệp hành chính.

Xây dựng, quản lý thị trường bất động sản và chính sách tài chính đất đai.

Trong thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất là quan trọng nhất, do vậy, việc xây dựng chính sách, pháp luật về thị trường bất động sản phải chú trọng một cách đầy đủ chính sách đất đai bảo đảm yêu cầu phát huy nguồn lực từ đất đai đồng thời bảo đảm tính bền vững, an sinh xã hội. Nhà nước định hướng, điều tiết và kiểm soát thị trường, ngăn chặn và xử lý các hành vi đầu cơ, làm giá, làm méo mó thị trường bất động sản bằng các chính sách và quy hoạch. Bảo đảm tính minh bạch trong quản lý đất đai; tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia thị trường bất động sản. Nâng cao vai trò của tổ chức phát triển quỹ đất nhằm tạo lập quỹ đất “sạch” cho thị trường bất động sản. Tăng cường chỉ đạo, tổ chức của Nhà nước trong việc tạo quỹ đất “sạch” do Nhà nước quản lý, tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để giảm dần cơ chế “xin - cho” trong giao đất, cho thuê đất.

Đồng thời, có chính sách sử dụng đất nông nghiệp hợp lý để khuyến khích nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Có biện pháp tổ chức thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã đề ra. Trong đó, nghiên cứu tăng thời hạn sử dụng đất hợp lý đối với từng loại đất, mục đích sử dụng đất, đồng thời mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất bảo đảm phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu dân cư, đồng thời có cơ chế bảo vệ vững chắc đất trồng lúa.

Gắn quản lý sử dụng đất đai với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.

Vấn đề rất lớn đặt ra trong quản lý đất đai khi nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp là sử dụng đất đai và tài nguyên phải hiệu quả và bảo đảm tính bền vững. Đây không chỉ là thách thức mang tính toàn cầu mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi quốc gia, từng con người. Mọi hoạt động sinh tồn của con người đang làm biến đổi mạnh mẽ môi trường. Vấn đề ô nhiễm đất, thoái hóa đất, sa mạc hóa, tác động của biến đổi khí hậu đang và sẽ làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, làm giảm năng suất, sản lượng cây trồng. Sự mất cân bằng về sinh thái cũng dẫn đến biến đổi khí hậu, làm tăng thiên tai tác động đến sử dụng đất. Do đó, ngay từ bây giờ, việc sử dụng đất phải gắn chặt với các kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng; cần chủ động có những chính sách, đối sách phù hợp./.

---------------------------------------------

(1) Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của cả nước đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua tại Nghị quyết số 29/2004/QH11 ngày 15-6-2004. Kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010) của cả nước được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua tại Nghị quyết số 57/2006/QH11 ngày 29-6-2006

(2) Kết quả cấp giấy chứng nhận đến năm 2011: Đất sản xuất nông nghiệp đã cấp đạt 85% diện tích; đất lâm nghiệp đạt 86,3%; đất ở nông thôn 82,1%; đất ở đô thị đạt 63,5%; đất cơ sở tôn giáo đạt 81,6%