Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật Đảng luôn được bổ sung và hoàn thiện, hoạt động kiểm tra, xử lý kỷ luật trong Đảng cũng luôn được đổi mới. Điều đó được thể hiện trong Báo cáo Chính trị và Điều lệ Đảng qua các kỳ Đại hội của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cũng như thực tiễn thực hiện nhiệm vụ kiểm tra thời gian qua. Đảng ta luôn khẳng định: Lãnh đạo mà không kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo; kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là một nội dung quan trọng của phương thức lãnh đạo của Đảng, là một nội dung không thể thiếu của công tác xây dựng Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra của Đảng; kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm minh, kỷ luật sắt. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng. Đồng thời Đảng nhấn mạnh phải: tăng cường công tác kiểm tra của các cấp ủy, của Ủy ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đang đứng trước bối cảnh có nhiều thuận lợi và cơ hội, đồng thời cũng đang đương đầu với không ít khó khăn, thách thức và nguy cơ, tác động rất phức tạp đến vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là công tác kiểm tra và kỷ luật trong Đảng. Điều đó đòi hỏi công tác kiểm tra trong Đảng không chỉ hoạt động trong phạm vi phục vụ nhiệm vụ xây dựng nội bộ Đảng, mà còn phải nhằm mục tiêu thực hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước, góp phần bảo đảm sự lãnh đạo thành công của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng không chỉ phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng mà còn phải phục vụ đắc lực yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trước mắt là, phục vụ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị do Đại hội IX của Đảng đề ra: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2010 đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tăng cường quốc phòng và an ninh; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trước bối cảnh đó, nếu công tác kiểm tra và kỷ luật Đảng không được đổi mới thì không thể đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

Hiện nay, có rất nhiều nhân tố tác động đến công tác kiểm tra và xử lý kỷ luật trong Đảng, mà hoạt động kiểm tra và xử lý kỷ luật Đảng cần phải bao quát, để có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu đặt ra của thực tiễn. Đó là, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển, các mối quan hệ đối ngoại chuyển động mạnh mẽ trong tiến trình chủ động hội nhập ngày càng sâu, rộng hơn trên nhiều lĩnh vực; khoa học - kỹ thuật phát triển nhanh, nhất là công nghệ thông tin đã làm xuất hiện các phương thức quản lý mới. Nhất là, sự tan rã và mất quyền lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản cầm quyền, gắn liền với nó là chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào đã tác động lớn đến tư tưởng và lý tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, thậm chí có một số người đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong khi đó, bối cảnh quốc tế diễn biến rất phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Trong quá trình thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và đẩy nhanh việc hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, những mặt trái của cơ chế thị trường đang tác động không nhỏ đến tâm tư tình cảm của một số cán bộ, đảng viên. Trong khi đời sống còn khó khăn, nếu bản thân đảng viên không xác định tốt về tư tưởng, lại không được kiểm tra, giám sát chặt chẽ thì rất dễ vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị, nếu không có cơ chế kiểm tra và giám sát chặt chẽ dễ dẫn đến quan liêu, độc đoán chuyên quyền, lộng quyền và lạm quyền. Vì vậy, công tác kiểm tra và xử lý kỷ luật trong Đảng không cho phép sự "lấn sân" hoặc có "vùng cấm" trong Đảng đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Công tác kiểm tra trong Đảng là một bộ phận rất quan trọng của công tác xây dựng Đảng, gắn liền với sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng qua các giai đoạn cách mạng. Thời gian qua, công tác kiểm tra đã đóng góp tích cực vào việc lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới của Đảng; góp phần quan trọng trong việc bảo vệ đường lối, quan điểm, các nguyên tắc của Đảng, thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, góp phần tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Các tổ chức đảng đã nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về công tác kiểm tra của Đảng. Nhiều cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo công tác kiểm tra, xây dựng chương trình kế hoạch và trực tiếp kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới theo Điều lệ Đảng nên đã đạt kết quả thiết thực. Ủy ban kiểm tra các cấp đã tham mưu đắc lực cho cấp ủy cùng cấp về công tác kiểm tra và trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo Điều lệ Đảng. Nói chung, các kết luận của Ủy ban Kiểm tra các cấp là khách quan và chính xác; qua đó, đồng thời rút ra nhiều bài học kinh nghiệm để nâng cao dần chất lượng công tác kiểm tra.

Tuy nhiên, trong giai đoạn cách mạng mới, các tổ chức đảng, nhất là đảng viên của Đảng chịu sự tác động của nhiều nhân tố phức tạp đan xen nhau, vấn đề giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng đang đứng trước những thách thức mới, nhất là trong khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, thoái hóa, biến chất, phai nhạt lý tưởng cách mạng đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng. Tổ chức cơ sở đảng ở nhiều nơi yếu kém, không phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo. Bệnh quan liêu, độc đoán, chủ quan, kèn cựa, cá nhân chủ nghĩa còn nặng. Những hạn chế, yếu kém đó, một phần là do công tác kiểm tra của Đảng còn nhiều bất cập và việc xử lý kỷ luật trong Đảng cũng còn có nơi, có lúc chưa nghiêm.

Để khắc phục các hạn chế, bất cập đó, để công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng đáp ứng đòi hỏi của giai đoạn cách mạng mới, góp phần quan trọng hơn nữa vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nội bộ Đảng trong sạch, vững mạnh với đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu có đủ phẩm chất, năng lực thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ được giao trên mọi lĩnh vực, cần tiếp tục đổi mới công tác kiểm tra, kỷ luật trong Đảng theo phương hướng sau:

Một là, xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách, phương thức phù hợp nhằm phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, để nhân dân thật sự giám sát Đảng một cách hiệu quả. Điều lệ Đảng hiện hành quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam chịu sự giám sát của nhân dân. Nhưng hiện nay chưa có chính sách, chế tài cụ thể, đủ hiệu lực để nhân dân thực hiện quyền đó. Vì thế, nhiều tổ chức đảng và đảng viên rất dễ xa dân, không nghe được các ý kiến và nguyện vọng chính đáng của dân còn nhân dân chưa giám sát được Đảng. Không có dân thì không có Đảng, mọi hoạt động của Đảng đều phải dựa vào dân - dân là gốc, sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, sự nghiệp cách mạng của Đảng cũng chính là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng cơ chế, các quy định cụ thể như nhân dân được giám sát những nội dung gì, phản ánh cho ai..., đồng thời phải có chính sách khen thưởng và biện pháp hữu hiệu bảo vệ những người phản ánh cho Đảng những hành vi vi phạm, suy thoái của cán bộ, đảng viên, tránh để xảy ra hiện tượng trù dập của những người có chức, có quyền đối với những người giám sát.

Tổng kết việc thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở thời gian vừa qua, rút ra những bài học kinh nghiệm để thực hiện tốt quy chế này trong thời gian tới, bảo đảm phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Thực hiện tốt việc cán bộ, đảng viên tự phê bình trước công chức, nhân viên trong cơ quan, đơn vị, trước tổ dân phố, thôn, bản... để nhân dân trực tiếp tham gia góp ý kiến nhận xét cán bộ, đảng viên. Cần công khai với nhân dân những chủ trương, quy định của Đảng và chính sách, chế độ của Nhà nước có liên quan đến trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các cơ quan, cán bộ, đảng viên, những điều đảng viên không được phép làm. Có như vậy, nhân dân mới có cơ sở để đối chiếu trong quá trình giám sát.

Tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền giám sát trực tiếp và gián tiếp thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng. Trong giám sát hoạt động của Đảng, phải phát huy và tận dụng cao nhất, tốt nhất sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, của sự phối hợp trách nhiệm hoạt động giám sát của các cơ quan của Nhà nước từ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan tư pháp, các đoàn thể chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Trong đó, nhân dân giám sát Đảng cần tập trung chủ yếu vào giám sát cán bộ, đảng viên. Tăng cường các buổi tiếp xúc trực tiếp giữa các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước với nhân dân để hiểu dân và hiểu cán bộ dưới quyền hơn, thực hiện việc đưa đảng viên đang công tác ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước... về sinh hoạt ở nơi cư trú. Tổ chức đảng phải tự đến với nhân dân và chú ý lắng nghe, tiếp thu các ý kiến của nhân dân, để nhân dân chủ động góp ý xây dựng Đảng.

Hai là, xây dựng quy trình thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật của các cấp ủy các cấp. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Các cấp ủy lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành đường lối chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và đích thân người đứng đầu cấp ủy phải trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm tra. Vì chỉ có cấp ủy mới có đủ thẩm quyền kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên chấp hành và thực hiện đường lối chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Qua kiểm tra, mới thẩm định được tính đúng đắn và khả thi của các chủ trương, nghị quyết do chính mình đề ra. Hiện nay, vẫn còn những cấp ủy và cán bộ chủ chốt của cấp ủy tuy có thể nhận thức được điều đó, nhưng chưa có chuyển biến trong các công tác lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thậm chí có một số còn chưa nhận thức đúng về công tác kiểm tra, nên vẫn phó mặc nhiệm vụ kiểm tra cho Ủy ban kiểm tra. Vì vậy, trước hết cần tuyên truyền để toàn thể đảng viên, nhất là các cấp ủy viên nhận thức rõ vấn đề kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng mà các cấp ủy phải vừa là người lãnh đạo vừa là người trực tiếp thực hiện. Đồng thời, xây dựng quy trình thực hiện nhiệm vụ này cho các cấp ủy. Hiện nay, trong việc thực hiện quy trình công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ủy ban kiểm tra các cấp, nhiều cấp ủy có ý thức quan tâm đến công tác kiểm tra nhưng khi thực hiện thì còn rất lúng túng, hiệu quả còn hạn chế. Do đó, cần quy định rõ trách nhiệm lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và tự kiểm tra của các đồng chí cán bộ chủ chốt, cán bộ lãnh đạo các cấp ủy từ Bộ Chính trị đến cấp ủy cơ sở; định kỳ sơ kết, tổng kết việc lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra cấp ủy và cần đưa điều đó vào tiêu chí đánh giá cấp ủy viên hằng năm.

Ba là, xây dựng chính sách và chế tài thống nhất về xử lý kỷ luật trong Đảng, nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm phương châm "công minh, chính xác, kịp thời", bảo đảm bình đẳng đối với mọi đảng viên. Có như vậy, mới khắc phục tình trạng xử lý nặng nhẹ khác nhau trước cùng một lỗi vi phạm, gây ra hiện tượng bất bình đẳng và khiếu nại kéo dài; chấm dứt tình trạng đảng viên mắc sai phạm ở nơi này lại được điều sang nơi khác và thậm chí được đề bạt. Làm như vậy chẳng những hỏng việc mà còn hỏng cả cán bộ.

Bốn là, đổi mới phương pháp phối hợp giữa Ủy ban kiểm tra với các ban của Đảng và các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của Đảng, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của sự phối hợp đó. Cần xây dựng cơ chế phối hợp theo hướng quy định rõ nội dung và cách thức phối hợp, cơ quan chủ trì phối hợp và trách nhiệm từng cơ quan trong sự phối hợp đó.

Năm là, nhận thức đúng về vị thế của Ủy ban Kiểm tra, đồng thời nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra. Trong các ban của Đảng, thì Ủy ban Kiểm tra là ban đảng duy nhất do cấp ủy cùng cấp bầu ra. Điều lệ Đảng quy định rõ nhiệm vụ của Ủy ban Kiểm tra các cấp. Song, cần quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Kiểm tra phải rộng hơn và phải có tính độc lập tương đối. Mặt khác, Ủy ban Kiểm tra các cấp phải tự đổi mới mình cả về tổ chức công tác kiểm tra và cả về phương thức hoạt động với tư tưởng chỉ đạo hoạt động công tác kiểm tra là: "chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả". Ủy viên Ủy ban Kiểm tra phải có phẩm chất, năng lực, trình độ tương đương cấp ủy viên cùng cấp. Kiểm tra là một nghề nên người làm công tác kiểm tra phải có đủ đức và tài, trong đó đức là "gốc". Người làm công tác kiểm tra phải có bản lĩnh và uy tín, khi giải quyết các vụ, việc, phải có công tâm, trung thực, khách quan, thận trọng và kiên quyết. Đặc biệt trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người làm công tác kiểm tra phải có kiến thức tương đối toàn diện về các lĩnh vực pháp luật, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng và công tác đảng. Vì vậy, cùng với quá trình đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra thì người làm công tác kiểm tra phải luôn luôn tự học tập, đúc rút kinh nghiệm để có phẩm chất và trình độ đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Mặt khác, cần có chính sách thu hút những người có đức và thực tài về lĩnh vực kiểm tra làm công tác kiểm tra.

Sáu là, nâng cao tính tự giác, tự phê bình và tự kiểm tra của tổ chức đảng và đảng viên. Do tính đặc thù của công tác kiểm tra, Đảng là đối tượng kiểm tra cũng đồng thời là chủ thể kiểm tra, cho nên phương pháp cơ bản của công tác kiểm tra của Đảng là dựa vào đảng viên và tổ chức đảng, phát huy tinh thần tự giác, tự phê bình và phê bình của đảng viên và tổ chức đảng. Thực tiễn hiện nay cho thấy, công tác phê bình và tự phê bình của đảng viên và tổ chức đảng nói chung đều yếu, có nơi chỉ là hình thức. Tình trạng nể nang, né tránh, không dám đấu tranh phê bình trong Đảng và bộ máy nhà nước là khá phổ biến. Hầu như chưa có một cuộc phê bình và tự phê bình nào của tổ chức đảng và đảng viên tự nhận là mình chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ và kỷ luật Đảng chưa nghiêm túc, thậm chí coi việc tham nhũng, quan liêu, suy thoái diễn ra ở nơi khác, người khác.

Tự kiểm tra mình là việc khó nhất, vì vậy trước hết phải chiến thắng chính chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người. Nói đến tự kiểm tra là phải nói đến tính tự giác cao, tự đấu tranh rất gian khổ với chủ nghĩa cá nhân và bệnh cá nhân, bệnh sĩ diện, là thái độ không tự tha thứ với những yếu kém. Nếu không biết đúng, sai thì không tự kiểm tra được và không tự giác tự kiểm tra, tự sửa chữa và dễ dẫn đến tự đánh mất mình. Là đảng viên, phải biết tu dưỡng và muốn tu dưỡng tốt càng phải tự kiểm tra. Tự kiểm tra và tiếp thu nghiêm túc ý kiến của quần chúng nhân dân sẽ giúp mỗi người tự biết sai lầm, biết sửa chữa để tiến lên.

Tự giác là bản chất của Đảng, tự giác không chỉ là phương tiện mà còn là mục đích của công tác kiểm tra nói riêng và công tác xây dựng Đảng nói chung. Vì vậy, cần có giải pháp lâu dài và biện pháp trước mắt nhằm nâng cao tính tự giác của cán bộ, đảng viên. Tự kiểm tra, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.


* GS.TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Trung ương