Nâng cao tính cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam từ phát huy vai trò của “bốn nhà” trong sản xuất lúa gạo
TCCSĐT - Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, khối lượng sản xuất hàng hóa của nền nông nghiệp Việt Nam không ngừng gia tăng, dễ dàng chiếm lĩnh ngôi vị quốc gia có lượng gạo xuất khẩu đứng thứ hai trên thế giới. Thế nhưng, lợi tức cho nông dân tăng rất chậm, nhất là đối với người trồng lúa. Nông thôn Việt Nam, do đó vẫn nghèo, vùng sâu, vùng xa lại càng nghèo. Nguyên nhân sâu xa của sự thua kém của nông nghiệp Việt Nam, suy cho cùng, là kết quả tổng hợp của cách làm ăn tự phát của nông dân và các doanh nghiệp liên quan đang tự “bơi” trong biển cả của hội nhập kinh tế quốc tế.
Vì sao lợi tức của người nông dân gia tăng chậm?
Có thể thấy, tình trạng nghèo nàn của nông thôn Việt Nam là hậu quả của những thực trạng sau đây:
- Đất đai manh mún, nhỏ lẻ: Việt Nam đã thực hiện cải cách ruộng đất sớm so với nhiều quốc gia khác ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh. Chính sách “khoán 100”, sau đó được củng cố bởi “khoán 10”, đã phân bổ lại đất cho nông dân nhưng vẫn rất manh mún, mỗi hộ tự canh tác riêng lẻ trên mảnh đất nhỏ bé của mình. Điều này gây trở ngại rất lớn cho việc sản xuất quy mô lớn và hiện đại, đưa đến sản phẩm không đồng đều, chất lượng thấp, giá thành cao… nên lợi nhuận và sức cạnh tranh đều thấp.
- Sản xuất cá thể một cách tự phát: Nông dân chúng ta vẫn có thói quen chăn nuôi, trồng trọt theo phong trào một cách quá tự do, không có tổ chức, cũng không biết chắc sản phẩm làm ra sẽ bán cho ai, bán được bao nhiêu. Điều này đã khiến cho họ liên tục đối mặt với rất nhiều rủi ro: khi được mùa thì mất giá, lúc được giá lại không có sản phẩm để bán.
- Áp dụng khoa học kỹ thuật không đồng đều: Thay vì làm theo khuyến cáo kỹ thuật một cách triệt để, bà con nông dân thường sản xuất theo thói quen và kinh nghiệm truyền thống của mình là chính. Cách làm cũ vì thế luôn tạo cơ hội cho sâu bệnh sinh sôi, dễ xâm nhập đồng ruộng, khiến họ phải sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều, làm ô nhiễm môi trường; đó cũng là nguyên nhân gián tiếp làm giảm chất lượng sản phẩm và đẩy giá thành sản xuất lên cao. Bên cạnh đó, với một lượng sản phẩm ít ỏi từ một cung cách sản xuất nhỏ lẻ và không đồng nhất, rất khó có thể đăng ký và tạo nên những thương hiệu nổi tiếng.
- Hệ thống tiêu thụ sản phẩm qua thương lái là chính: Cho đến nay, gần như không có sự liên kết nào giữa nông dân (người sản xuất nguyên liệu) và doanh nghiệp (người đưa sản phẩm ra thị trường). Việc tiêu thụ sản phẩm của nông dân chủ yếu là do thương lái tư nhân thực hiện, từ xã cho đến huyện và tỉnh. Trên địa bàn nông thôn, người ta hầu như không thấy bóng dáng những doanh nghiệp vừa và nhỏ, mặc dù từ lâu, Nhà nước đã cho phép tư nhân đầu tư xuất khẩu trực tiếp.
- Cấu trúc hạ tầng thấp kém: Trừ những vùng gần thành thị hoặc gần quốc lộ chính có khả năng tiếp cận giao thông thuận tiện, còn đa phần nông dân, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, luôn bị thiệt thòi do không thể tiếp xúc với thị trường một cách dễ dàng. Họ phải bán sản phẩm cho thương lái với giá rẻ, trong khi mua lại hàng hóa phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng với giá cao. Một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long có xây chợ đầu mối để tiêu thụ nông sản, nhưng hầu hết đều thất bại vì nông dân ít chịu khó mang sản phẩm đến bán. Lý do là họ không đủ phương tiện chuyên chở, trong khi giao thông trở ngại, bán tại chỗ cho thương lái tiện lợi nhiều bề.
Hiện trạng sản xuất nông nghiệp, nhìn từ vai trò của “bốn nhà”
Cho đến nay, có thể khẳng định, “liên kết bốn nhà” được đề cao chủ yếu là về hình thức, còn vai trò của mỗi “nhà” trong liên kết này vẫn còn mờ nhạt và chưa thực sự phát huy hiệu quả. Hiện trạng công tác ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp dưới đây là một ví dụ cụ thể.
Từ phía các nhà khoa học: Trách nhiệm của các nhà khoa học là chọn và tạo nên các giống lúa chất lượng cao và năng suất cao. Nhà khoa học còn có trách nhiệm xác định quy trình sản xuất GAP (sản xuất theo kỹ thuật cao), xác định biện pháp bón phân cân đối trên vùng đất chính, biện pháp làm đất cụ thể cho từng vùng, nhằm thoát và tránh phèn, thoát và tránh mặn, v.v. và chủ yếu đều là các thử nghiệm mang tính thương mại hơn là mang tính khoa học. Còn tâm lý chung của người nông dân hiện nay là thích trồng giống năng suất cao. Mà đã là giống năng suất cao thì thường là chất lượng thấp.
Từ phía nhà nông: Ngoài những hạn chế kể trên (thiếu vốn sản xuất, đất đai manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính …), người nông dân Việt Nam còn có thêm các đặc điểm sau:
- Cần cù lao động nhưng chưa chịu đổi mới. Vẫn nặng về tư duy sản xuất cá thể, đơn lẻ, mặc cảm, không mặn mà với hợp tác hóa nông nghiệp;
- Có nhiều sáng tạo trong sản xuất: Do tính hai mặt của vấn đề, nên nếu thiếu định hướng và biện pháp bắt buộc sẽ dẫn đến phá vỡ quy trình GAP mà chúng ta đang tập trung xây dựng và phấn đấu để đạt được.
- Quá nhiều tự do: Bà con thường có tư tưởng không cần học, muốn trồng cây gì, bón phân gì, áp dụng thuốc trừ sâu bệnh gì là tùy thích; ngay cả sau khi thu hoạch, muốn bán cho ai thì bán.
Một khi không có thị trường ổn định và chắc chắn, lệ thuộc vào thương lái, tự tính toán khả năng tránh rủi ro cho riêng mình… chính là bà con đang tự xa rời quy trình GAP, vì thế hiệu quả sản xuất vẫn luôn bấp bênh.
Từ phía các nhà doanh nghiệp: Hiện tại, chúng ta có quá nhiều doanh nghiệp ở các quy mô lớn, vừa và nhỏ. Trong khi doanh nghiệp chuyên hoạt động trong ngành sản xuất lúa gạo chỉ đếm được trên đầu ngón tay, thì doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, nhất là xuất khẩu gạo lại quá đông và chỉ dựa vào các thương lái là chính. Một trong các đặc điểm nổi bật của các doanh nghiệp xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam là, không có thị trường đầu ra ổn định; không có vùng nguyên liệu; không có hoặc không đủ kho tàng chứa lúa gạo; không có máy sấy lúa đúng tiêu chuẩn, phần lớn lệ thuộc vào các nhà máy bóc vỏ trấu, máy lau bóng của thương lái trung gian; phần lớn gạo xuất khẩu không có thương hiệu.
Từ phía Nhà nước: Trong phát triển ngành lúa gạo, có thể nói, thời gian qua, Nhà nước chưa quản lý, điều hành được trong hầu hết các khâu của sản xuất. Nông dân muốn trồng gì thì trồng, muốn bán cho ai thì bán; doanh nghiệp muốn mua nông sản của nông dân bằng cách nào cũng được; và mặc dù Nhà nước đã có các quy định liên quan đến nông nghiệp, xuất khẩu, nhưng ai muốn nghe hoặc không nghe cũng được.
Tóm lại, thực trạng hoạt động của “bốn nhà” như trên đã dẫn đến tình trạng đáng lo ngại. Đó là cùng một cánh đồng có hàng chục giống lúa với chất lượng không đồng đều về mẫu mã, không bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, chủ yếu do thương lái mua gom với mục tiêu lợi nhuận là tối thượng, nên sản phẩm lúa gạo không có thương hiệu mạnh, khả năng cạnh tranh rất kém.
Cần làm gì trước thị trường thời hội nhập?
Trước thực trạng trên, muốn nông thôn giàu mạnh, thị trường nông thôn cần phải được liên kết chặt chẽ với thị trường thành thị và thị trường quốc tế. Thị trường cạnh tranh hiện nay có 4 đòi hỏi: sản phẩm phải đạt chất lượng tối đa; khối lượng sản phẩm phải đủ lớn để chuyên chở ít tốn phí; thời điểm giao hàng phải đúng theo hợp đồng; giá sản phẩm phải thật cạnh tranh. Tuy nhiên, tình trạng nông dân sản xuất cá thể như hiện nay sẽ không bao giờ thoả mãn các điều kiện trên. Hai nhược điểm lớn nhất của các doanh nghiệp kinh doanh nông sản Việt Nam là thiếu đầu óc kinh doanh, và do đó thiếu thị trường ổn định. Hệ quả là, nông thôn chúng ta vẫn tiếp tục chịu nghèo, còn doanh nghiệp thì không thể phát triển mạnh.
![]() |
|
|
1. Trước hết, địa phương cần xác định lợi thế tương đối đặc thù của vùng mình, trong đó có sự quy hoạch chính xác vùng nào có thế mạnh về cây gì, con gì. Trên cơ sở đó, Nhà nước và địa phương xây dựng kết cấu hạ tầng phù hợp với từng vùng quy hoạch để tạo điều kiện tốt cho nông dân sản xuất mặt hàng đó.
2. Khi đã xác định được lợi thế cây trồng, vật nuôi và ở đâu, Nhà nước và doanh nghiệp cần xác định thị trường cho từng sản phẩm mũi nhọn ấy để chuẩn bị xúc tiến thương mại.
3. Tập hợp nông dân trong từng vùng sản xuất đã quy hoạch, tổ chức xây dựng từng “cụm liên kết” hoặc những “hợp tác xã” nông nghiệp sản xuất theo quy trình GAP, có khả năng tạo ra những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trong nước và quốc tế. Những nông dân, xã viên của các hợp tác xã, hoặc thành viên của các cụm liên kết sản xuất kỹ thuật cao này phải có kiến thức và tay nghề cao nhất. Do đó, Nhà nước và doanh nghiệp sẽ liên kết tổ chức đào tạo (chuyển giao kỹ thuật) cho nông dân những kiến thức và kỹ năng theo quy trình kỹ thuật để sản xuất loại nông sản mà doanh nghiệp cần.
4. Tập hợp khoa học kỹ thuật, bao gồm các bộ, ngành chuyên môn, trường đại học hoặc trung tâm, viện nghiên cứu… ở gần nhất so với vùng của hợp tác xã hoặc cụm liên kết để thuận lợi trong việc nghiên cứu và ứng dụng các khâu: quy trình kỹ thuật, kỹ thuật chế biến, tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, v.v…
5. Tập hợp các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gồm các ngân hàng, các công ty hoá chất nông nghiệp, công ty bảo quản, chế biến, bao bì, phân phối cho mạng lưới đại lý trong nước và xuất khẩu các sản phẩm có thương hiệu sang Nhật Bản, Ố-xtrây-li-a, châu Âu, Mỹ, v.v
Chính sách kinh tế hợp tác khi được tổ chức thành hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao như trình bày trên đây, sẽ có tác dụng quyết định tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam qua tác động trên cả ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong đó, vai trò điều phối của Nhà nước sẽ quyết định sự thành bại của sự liên kết qua năm nội dung trên đây.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được sắp xếp lại. Trong đó, cùng với sớm khắc phục tình trạng làm ăn chụp giựt như hiện nay, đội ngũ giám đốc cũng cần được đào tạo chuyên môn cao, có đầu óc kinh doanh giỏi, thông thạo ít nhất một ngoại ngữ; đội ngũ cán bộ và công nhân được bồi dưỡng nghiệp vụ hiện đại.
Một số chính sách chủ yếu góp phần giúp nông thôn Việt Nam phát triển
Từ những trình bày và phân tích trên, xin có một vài đề nghị với Đảng và Nhà nước để khuyến khích đầu tư phát triển thị trường nông thôn trong thời gian tới như sau.
Một là, cần sửa đổi Luật Đất đai, trong đó quy định cụ thể cho phép tư nhân tích tụ ruộng đất để giảm sự manh mún trên đồng ruộng, từ đó mới có thể khuyến khích việc đầu tư nguồn vốn lớn và tập trung cho nông nghiệp.
Hai là, sửa đổi Luật Hợp tác xã, chú trọng phát triển hợp tác xã nông nghiệp; trong đó không bắt buộc nông dân nghèo phải góp vốn điều lệ (đóng cổ phần), miễn thuế cho hợp tác xã nông nghiệp trong ít nhất 10 năm, cho phép lập Quỹ tín dụng để Nhà nước rót vốn sản xuất cho nông dân, xã viên; kết nối hợp tác xã nông nghiệp với doanh nghiệp cả trong đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất.
Ba là, áp dụng “chuỗi giá trị gia tăng” đối với doanh nghiệp đầu ra - là trung tâm trong tổ chức lại sản xuất ở nông thôn. Trong xu thế toàn cầu hoá, doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò rất quan trọng trong việc kết nối nông dân nghèo với thị trường. Vì vậy, thành phần kinh tế này phải được bảo đảm các yếu tố dẫn tới thành công trong sản xuất, kinh doanh, nếu không họ sẽ không đầu tư vào nông thôn.
Bốn là, thị trường cần được đáp ứng các yếu tố như đường sá, cầu cống, thông tin, viễn thông, chợ, phương tiện chuyên chở… Và những cấu trúc hạ tầng đó cần được nối kết đến thị trường tiêu thụ qua các doanh nghiệp năng động, tạo cơ hội bình đẳng giữa khu vực nông thôn và thành thị.
Trước thách thức của hội nhập, Nghị quyết Trung ương 7, khoá X của Đảng về “nông nghiệp, nông dân và nông thôn” đã được ban hành. Vấn đề tiếp theo là trong triển khai thực hiện, đòi hỏi có sự đổi mới tư duy quản lý một cách năng động, sáng tạo, đồng thời mạnh dạn chọn những hướng đi nhanh và vững chắc hơn. Trong đó, điều quan trọng là, thay cho cách làm ăn manh mún, cục bộ, đơn ngành, phải có cách làm ăn mới có quy mô, có sự cộng tác và điều phối đa ngành trong các hợp tác xã hoặc cụm liên kết sản xuất nông nghiệp bằng kỹ thuật cao theo chuỗi giá trị gia tăng. Đồng thời, phải coi doanh nghiệp gắn với khoa học công nghệ hiện đại là trung tâm, để có thể phát triển nông nghiệp toàn diện và giúp nông thôn phồn thịnh./.
Nguyên nhân đình công ở một số doanh nghiệp trong thời gian qua  (08/11/2010)
Việt Nam - ASEAN : Hội nhập và Phát triển - Dấu ấn về một Chủ tịch ASEAN chủ động, tích cực, trách nhiệm và tin cậy  (07/11/2010)
Gần 2.500 người tham gia diễu hành kỷ niệm 93 năm Cách mạng Tháng Mười vĩ đại tại Mát-xcơ-va  (07/11/2010)
Liên hợp quốc kêu gọi hỗ trợ chống biến đổi khí hậu và thực hiện một đường lối mới cho cuộc chiến chống đói nghèo  (06/11/2010)
Chính phủ quyết tâm giữ lạm phát ở mức một con số  (06/11/2010)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm
