Chiến tranh thông tin của Mỹ - từ Cô-xô-vô đến Nam Ô-xê-ti-a
Trong cuộc chiến ở Nam Ô-xê-ti-a vừa qua, ngoài cuộc đọ súng trên chiến trường, dư luận quốc tế được chứng kiến một cuộc chiến tranh khác có phần còn quyết liệt hơn, gay cấn hơn giữa các bên. Đó là cuộc “chiến tranh thông tin” giữa Mỹ và các nước phương Tây với Nga, mà ưu thế vượt trội không thuộc về Nga. Để bạn đọc tham khảo, tìm hiểu thêm về cuộc chiến tranh này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết “Chiến tranh thông tin của Mỹ - từ Cô-xô-vô đến Nam Ô-xê-ti-a”. Bài viết gồm 3 phần, dưới đây là:
Phần 1: Chiến tranh thông tin của Mỹ
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia phân tích chính trị quốc tế, trong quan hệ với nước Nga và các nước châu Âu khác, giới lãnh đạo ở Mỹ đặt “chiến lược không can thiệp trực tiếp” lên hàng đầu, trong đó, hoạt động chiến tranh thông tin - tâm lý đóng vai trò và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trong tác phẩm "Thế nào là chiến tranh thông tin", một trong những chuyên gia lý luận hàng đầu về chiến tranh thông tin của Mỹ đã xác định 7 hình thức của loại hình chiến tranh này là chiến tranh chỉ huy - quản lý; chiến tranh tình báo; chiến tranh tâm lý; chiến tranh virus; chiến tranh kinh tế; chiến tranh điện tử; và chiến tranh điều khiển.
Theo tác giả, riêng chiến tranh tâm lý có bốn nhiệm vụ: làm suy sụp tinh thần dân chúng, làm băng hoại đạo đức - tinh thần của quân đội đối phương, định hướng sai đối với ban lãnh đạo cấp cao và chiến tranh văn hoá. Vũ khí chủ yếu để tiến hành “chiến tranh thông tin" là các phương tiện thông tin đại chúng quốc gia và xuyên quốc gia, mạng thông tin toàn cầu. Đây là những phương tiện thông tin rất hữu hiệu để tác động đến thế giới quan, quan điểm chính trị, nhận thức pháp luật, lý tưởng và các quan niệm giá trị của từng con người cũng như toàn xã hội nói chung.
Áp đặt tiêu chuẩn kiểu Mỹ
Hiện nay, các phương tiện thông tin đại chúng hàng đầu ở Mỹ đang trải qua sự chuyển hướng căn bản trong hoạt động, nhằm tác động trực tiếp vào dư luận xã hội. Sử dụng biện pháp làm sai lệch nhận thức, thậm chí làm thay đổi hẳn nhận thức về tình hình thực tế, áp đặt cách giải thích một chiều về các quá trình chính trị - xã hội và thực trạng kinh tế lên dư luật quốc tế, tung ra các quan điểm đánh giá sự kiện ngược hẳn với quan niệm của dân chúng. Nền tảng tư tưởng chủ yếu ở đây là quan điểm cho rằng mô hình phát triển của Mỹ, lối sống kiểu Mỹ là tiêu chuẩn chân lý, còn bất kỳ sự lựa chọn nào khác đều “tiềm ẩn nguy cơ phá hoại trật tự thế giới”. Do vậy, Mỹ phải “đấu tranh” với những lựa chọn đó bằng tất cả các phương tiện, kể cả tiến công quân sự!
Để tăng cường hiệu quả tác động thông tin - tâm lý, các chuyên gia chiến tranh thông tin ở Mỹ chủ trương tăng đến mức tối đa số lượng các kênh tác động thông tin như văn học, điện ảnh, công nghệ thông tin, tôn giáo v.v.. Nội dung thông tin cần truyền tải sẽ được nhào nặn sao cho phù hợp với yêu cầu của các loại hình kênh thông tin khác nhau, để chuyển tới dân chúng một cách tự nhiên nhất. Những thông tin có tính cảm xúc và giải trí trên các kênh truyền hình được ưu tiên hơn cả. Trong đó, thông thường yếu tố tư tưởng chỉ được đứng ở vị trí sau, có vẻ thoáng qua, nhưng chính vì thế mà mức độ tác động của thông tin tăng lên gấp bội. Vì thế, một số chương trình giải trí xem ra có vẻ vô hại, nhưng theo chiến lược “mưa dầm thấm lâu”, sẽ được hình thành ở con người mối quan hệ gắn bó với bạo lực và hình thành cách giải quyết xung đột bằng bạo lực, bất chấp giá trị đích thực của con người.
Biện pháp tác động
Truyền hình được xem là phương tiện tác động có hiệu quả hơn nhiều so với đài phát thanh và báo chí, trước hết, vì nó có khả năng độc nhất vô nhị trong việc xoá nhòa ranh giới giữa cái thật và cái giả. Ngay cả những điều giả dối trần trụi một khi được thể hiện qua kênh truyền hình cũng ít khi gây nên phản ứng nghi ngờ ở người xem. Từ đó, tâm lý cảnh giác, tự vệ, hoặc “khả năng miễn dịch” của người xem bị tê liệt dần và con người mất dần khả năng nhận xét, phê phán. Một khi các kênh thông tin nói, nghe và nhìn đồng thời kết hợp với nhau trong truyền hình thì hiệu quả nhào nặn thông tin tác động vào nhận thức sẽ tăng lên gấp bội. Cùng một nội dung văn bản do một phát thanh viên đọc trên đài phát thanh khi được phát kết hợp với hình ảnh trên truyền hình sẽ được dư luận tiếp nhận như một chân lý hiển nhiên, đặc biệt là khi các hình ảnh đó được quay tại hiện trường.
Để tăng hiệu quả tác động thông tin - tâm lý, các chuyên gia chiến tranh tâm lý Mỹ sử dụng hàng loạt các thủ pháp như im lặng miễn bình luận, làm giả, khuếch đại, lựa chọn văn bản v.v.. Thí dụ, hiện nay các phương tiện thông tin đại chúng sử dụng rộng rãi một thủ pháp đơn giản được gọi là "định vị". Thủ pháp này tập trung trình bày những khía cạnh của đối tượng mà người xem quan tâm nhất, rồi biến một đối tượng không quen biết và lạ lùng thành quen biết và cần thiết đối với người xem. Thí dụ đơn giản nhất minh họa cách đưa tin theo kiểu "định vị" là thủ pháp sử dụng thuật ngữ khác nhau. Tổng thống G.Bu-sơ - cha gọi hàng nghìn người Mỹ ở Cô-oét là những "con tin", và Mỹ phải dùng sức mạnh quân sự để giải thoát họ. Một ví dụ khác tương tự là, phương tiện thông tin đại chúng đã chuyển hoá hàng loạt các thuật ngữ mô tả xung đột quân sự: thay vì sử dụng các thuật ngữ thông thường để miêu tả các hoạt động quân sự của Mỹ ở nước ngoài như "chiến dịch quân sự", "đột nhập", "tiến công", thì lại dùng các thuật ngữ nghe “mềm mại” hơn như "chiến dịch gìn giữ hoà bình", "sứ mệnh nhân đạo", "kiểm soát tình hình".
Hiện nay, trong dư luận thế giới, ngay cả khái niệm “chiến tranh” dường như cũng đã thay đổi. Các cơ quan thông tin ở Mỹ từ chiến tranh Vùng Vịnh tới nay đã xây dựng khái niệm "chiến tranh công nghệ cao" hoặc “chiến tranh giải phẫu”, “chiến tranh phi sát thương”, trong đó, sử dụng vũ khí giết người có độ chính xác chưa từng thấy, nhằm làm cho nhận thức của con người quên đi khái niệm chiến tranh đồng nghĩa với huỷ diệt và chết chóc. Từ đó, làm cho dư luận cảm thấy quân đội Mỹ ngày nay được trang bị vũ khí có trình độ công nghệ hiện đại nhất, đang tiến hành các chiến dịch quân sự “sạch”, không gây sát thương và tàn phá nhà cửa. Những khái niệm đó được sử dụng rộng rãi, phổ biến nhằm định hướng dư luận xã hội, theo hướng có lợi cho Mỹ.
Một thủ pháp nữa mà các phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ cũng thường sử dụng khi đưa tin về các xung đột quân sự là hạn chế thông tin toàn diện về các khía cạnh của vấn đề mà người xem quan tâm. Thí dụ, trong cuộc chiến tranh ở Nam Tư, các phương tiện thông tin đại chúng chỉ đưa tin một chiều về những người tị nạn Cô-xô-vô, không quan tâm đến người tị nạn Xéc-bi. Các kênh truyền hình chỉ đưa tin về những cuộc di tản hàng loạt của đàn ông, phụ nữ, trẻ em bị người Xéc-bi “xua đuổi”. Họ im lặng và không đưa tin về chuyện hàng loạt người Cô-xô-vô chạy tị nạn khi Mỹ và NATO bắt đầu ồ ạt tiến công Nam Tư.
Một thí dụ khác là, với thời lượng đưa tin không cân đối, các kênh thông tin tạo ra một bức tranh hoàn toàn khác thực tế khi đưa tin về các sự kiện ở Che-xnia. Thí dụ, trong một phóng sự 10 phút về chuyến đi của đoàn đại biểu cộng đồng châu Âu đến Che-xnia, người ta chỉ dành 3 phút đầu để đưa tin về các cuộc gặp gỡ chính thức với lãnh đạo chính trị và quân sự của Nga, về các nỗ lực bình thường hoá tình hình ở nước cộng hoà này, 7 phút còn lại đưa tin về dân chúng Che-xnia chạy tị nạn và “tội ác” của các lực lượng Liên bang Nga đối với dân thường.
Mỹ hoá các phương tiện thông tin đại chúng
Gần đây đang có xu hướng Mỹ hoá các phương tiện thông tin đại chúng của nhiều nước, không chỉ do hành động “xâm lược" của các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ mà còn do "sáng kiến" của lãnh đạo một số nước đang muốn gia nhập "thế giới văn minh". Quá trình Mỹ hoá các phương tiện thông tin đại chúng còn do tính cuốn hút của các chương trình truyền hình Mỹ. Do đó, người xem của nhiều nước tự coi mình là lạc hậu nếu không tiếp cận với truyền hình Mỹ(!).
Việc xây dựng hình mẫu truyền hình như một phương tiện quan trọng, chủ yếu để bành trướng tư tưởng, có tác động phá hoại đối với nền văn hoá dân tộc và cả xã hội nói chung. Chính từ đó có sự thay đổi quan niệm về giá trị, về hình thành các kiểu "anh hùng dân tộc" có trí tuệ siêu phàm và quan niệm thiếu phân tích đối với cuộc sống. Sẵn sàng sử dụng vũ khí và sức mạnh chính là sự bần cùng hoá tinh thần và hun đúc cách sống bạo lực trong xã hội. Điều đó sẽ dẫn đến cuộc khủng hoảng sâu sắc ngay cả trong phạm trù giá trị xã hội, chuyển từ nhận thức biện chứng đối với hiện tượng xung quanh sang nhận thức chấp nhận.
Công nghiệp điện ảnh - công cụ tuyên truyền có hiệu quả
Công nghiệp điện ảnh vẫn là công cụ tuyên truyền có hiệu quả của Mỹ. Trong thời gian gần đây, công nghiệp điện ảnh đã trải qua một cuộc “uốn nắn” tư tưởng. Trong các bộ phim được dàn dựng những năm trước đây như “Vách đá”, “Chiếc cung tên bị gãy” và “Trong vòng vây”, cơ sở kịch bản là bạo lực và khủng bố. Trong các phim những năm gần đây như “Người gìn giữ hoà bình”, “Ba vị hoàng đế” hoặc “Bên kia chiến tuyến”, hình ảnh các “anh hùng” trong phim không những đã có tác dụng đáng kể nâng cao “uy tín” của các quân nhân Mỹ, mà còn hình thành nhận thức và quan điểm tốt đẹp của dân chúng tại các nước phát triển đối với chiến tranh Vùng Vịnh, chiến tranh Nam Tư và chiến tranh Áp-ga-ni-xtan.
Đánh lạc hướng thông tin
Một trong những công cụ để tác động vào dư luận xã hội là tạo ra tin đồn và thông tin sai lệch nhằm đánh lạc hướng đối phương. Mạng thông tin toàn cầu và không gian thông tin mở làm cho hình thức tuyên truyền này trở nên rất đơn giản và hữu hiệu. Trong quá trình triển khai quân đồng minh ở Vùng Vịnh, Nam Tư hoặc Áp-ga-ni-xtan, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ sử dụng phương tiện thông tin đại chúng để đưa tin sai lệch về hoạt động chuẩn bị chiến tranh và ý đồ chiến lược của họ. Cơ quan này giảm đến mức thấp nhất số các nhà báo nước ngoài được có mặt tại các bộ chỉ huy và tham mưu của Mỹ, đồng thời tuyển một nhóm phóng viên đặc biệt chuyên đưa tin sai lệch về tình hình chiến sự, kiểm duyệt gắt gao các bản tin được phát đi. Các phương tiện thông tin đại chúng còn tổ chức các cú để lọt "thông tin mật", và “tiết lộ” quan điểm của các nhân vật cấp cao rất thạo tin trong bộ máy cầm quyền của Mỹ để tung tin sai lệch về chiến sự.
Hợp tác chiến lược Việt - Nga  (21/08/2008)
Phong trào cánh tả ở Ê-cu-a-đo - những năm đầu thế kỷ XXI  (21/08/2008)
Khai mạc phiên họp thứ 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội  (21/08/2008)
Nâng cao hơn nữa vai trò, năng lực của các hội, hiệp hội nghề cá và trung tâm khuyến ngư  (21/08/2008)
Nâng cao hơn nữa vai trò, năng lực của các hội, hiệp hội nghề cá và trung tâm khuyến ngư  (21/08/2008)
Đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu doanh nghiệp  (21/08/2008)
- Về tính chính danh của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIV
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm