Chế độ kiểm tra, đánh giá chính quyền trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng - Bài học của Đảng bộ tỉnh Ninh Bình
TCCS - Tỉnh Ninh Bình hiện có 8 đảng bộ huyện, thành phố, 719 tổ chức cơ sở đảng và 70.666 đảng viên. Trong những năm qua, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ tỉnh đã phát huy tốt vị trí là cơ quan lãnh đạo cao nhất, giữ vững được vai trò lãnh đạo chính quyền thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó kiểm tra, giám sát, đánh giá chính quyền trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng và đang phát huy hiệu quả tích cực.
Khi đã giành được chính quyền, Đảng lãnh đạo thông qua chính quyền là phương thức cơ bản nhất. Vì thế, sau khi có cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính quyền có nhiệm vụ thể chế hóa, cụ thể hóa thành kế hoạch phát triển các lĩnh vực của đời sống. Để quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa thể hiện đầy đủ quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, không bị chệch hướng hoặc bị “nhóm lợi ích” hướng lái để trục lợi, cần phải tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát.
Theo Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Nội dung này đã được cụ thể hóa ở nhiều văn bản khác nhau. Đối với cấp tỉnh, nó được thể hiện cụ thể tại Quy định số 231-QĐ/TW, ngày 16-6-2009, của Ban Bí thư, về “Quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của tỉnh ủy, thành ủy với các đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc”; Quy định số 42-QĐ/TW, ngày 3-10-2016, của Ban Bí thư, “Về nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh ủy, thành ủy”; gần đây nhất là Quy định số 10-QĐ/TW, ngày 12-12-2018, của Bộ Chính trị, “Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”... Trên cơ sở lý luận về Đảng cầm quyền, các quy định nói trên của Trung ương, vai trò lãnh đạo của Đảng ở Ninh Bình ngày càng được thể hiện rõ ở nguyên tắc tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng.
Những cách thức thực hiện chế độ kiểm tra, đánh giá và kết quả đạt được
Sau mỗi kỳ đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, căn cứ vào các quy định của Trung ương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh kịp thời bổ sung, xây dựng Quy chế làm việc. Đây là văn bản có tính pháp lý, thể hiện rõ nhất sự lãnh đạo của Đảng thông qua việc lãnh đạo chính quyền. Quy chế quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy và cá nhân các đồng chí cấp ủy viên, như việc Tỉnh ủy cho ý kiến định hướng lớn về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp lớn trong phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, 5 năm và dài hạn; Ban Thường vụ Tỉnh ủy thống nhất về chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; cho ý kiến về quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực... Qua đó, thể hiện được sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền trên các lĩnh vực công tác.
Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, hằng năm, ngay từ đầu năm Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành chương trình kiểm tra, giám sát và chủ trì, trực tiếp kiểm tra, giám sát từ 7 đến 8 cuộc. Trong đó, chú trọng kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, cấp ủy viên là lãnh đạo chính quyền và cấp ủy cơ quan chuyên môn trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, như kiểm tra các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành các quy định về quản lý đầu tư xây dựng đối với các dự án từ năm 2010 đến nay; kiểm tra Đảng ủy Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và lãnh đạo Sở thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 24-10-2016, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về “Phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa ứng dụng công nghệ cao, hình thức tiên tiến, bền vững giai đoạn 2016 - 2020, định hướng đến năm 2030”; giám sát đối với Đảng ủy Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Đảng ủy Sở Kế hoạch và Đầu tư và lãnh đạo Sở trong việc thực hiện Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26-12-2016, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí””... Sau mỗi cuộc kiểm tra, giám sát, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều ban hành kết luận để đánh giá kết quả thực hiện, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề cần được rút kinh nghiệm, khắc phục những sai sót, đồng thời bổ sung, điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo đạt hiệu quả hơn.
Cụ thể, Tỉnh ủy Ninh Bình đã thực hiện chế độ kiểm tra, đánh giá chính quyền trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng thông qua những cách thức chủ yếu sau:
Thứ nhất, thông qua việc định kỳ hằng tuần, hằng tháng, hằng quý, 6 tháng, hằng năm hoặc khi có yêu cầu, Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chế độ báo cáo việc cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng và kết quả, tiến độ thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và những công việc chỉ đạo, điều hành chủ yếu của chính quyền, những khó khăn, vướng mắc, đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện nghị quyết với Tỉnh ủy, trong đó trực tiếp, thường xuyên là tại giao ban tuần của Thường trực Tỉnh ủy, hội nghị hằng tháng của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Căn cứ vào tình hình, điều kiện cụ thể, Thường trực Tỉnh ủy và Ban Thường vụ Tỉnh ủy thống nhất chủ trương, giải pháp và được cụ thể hóa bằng thông báo kết luận hội nghị để chỉ đạo các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực hiện. Riêng năm 2018, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành 22 thông báo, Thường trực Tỉnh ủy ban hành 93 thông báo để lãnh đạo, chỉ đạo các công việc của Đảng bộ tỉnh.
Thứ hai, thông qua việc nắm tình hình dư luận, ý kiến phản ánh của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực hiện Quyết định số 1248-QĐ/TU, ngày 15-7-2014, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, “Về việc lãnh đạo các cấp thực hiện đối thoại trực tiếp với nhân dân”, hằng năm, Thường trực Tỉnh ủy tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân dân; trong năm 2018, tổ chức 3 cuộc đối thoại, gồm: đối thoại với cán bộ, hội viên hội nông dân các cấp; đối thoại với cán bộ Mặt trận Tổ quốc các cấp; đối thoại với cán bộ hội cựu chiến binh các cấp. Nắm tình hình thông qua việc tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp, nhất là công tác thẩm định, giám sát, khảo sát, chất vấn; xây dựng chuyên mục “Dân hỏi - thủ trưởng các cơ quan trả lời” trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh. Triển khai thực hiện phân công các đồng chí Tỉnh ủy viên, thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể nhân dân của tỉnh và cấp ủy, lãnh đạo các cấp định kỳ hằng tháng dự sinh hoạt với chi bộ thôn, xóm, tổ dân phố. Tiếp nhận và xử lý tin phản ánh, kiến nghị, đơn, thư của tổ chức, cá nhân đến “đường dây nóng” của Tỉnh ủy... Thông qua các hình thức nói trên, đã nắm chắc được thực tiễn ở cơ sở, những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng để kịp thời chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và các cơ quan có liên quan tìm các giải pháp tháo gỡ, giải quyết.
Thứ ba, thông qua làm việc với các tổ chức đảng có trách nhiệm thực hiện nghị quyết của Đảng và kiểm tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao đối với các tổ chức chính quyền. Hằng năm, Thường trực Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều bố trí các buổi làm việc với ban thường vụ huyện ủy, thành ủy, nhất là đối với Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh hoặc lãnh đạo các sở, ngành của tỉnh để nắm tình hình, kết quả thực hiện nghị quyết của Đảng đối với các vấn đề liên quan đến chức năng quản lý nhà nước. Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Quy chế làm việc của Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, thông qua đó đề cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của hai tổ chức đảng này; thường xuyên chỉ đạo Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh tổ chức các phiên giải trình, làm rõ các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị theo nghị quyết của cấp ủy; đồng thời thông qua các phiên giải trình làm rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân tỉnh, ủy ban nhân dân các huyện, thành phố, các sở, ban, ngành trong việc chỉ đạo, điều hành và thực hiện nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, thông qua việc chỉ đạo các cơ quan tham mưu của Đảng, các cơ quan chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra theo quy định. Từ khi bắt đầu thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đến nay, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp trong tỉnh đã kiểm tra 985 tổ chức đảng, 1.082 đảng viên; giám sát chuyên đề 719 tổ chức đảng, 769 đảng viên. Qua kiểm tra đã phát hiện, yêu cầu thu hồi, nộp ngân sách nhà nước gần 3 tỷ đồng và 4.830m2 đất không đúng quy định; thi hành kỷ luật 337 đảng viên và 15 tổ chức đảng. Hằng năm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều ban hành kế hoạch rà soát các cuộc thanh tra về kinh tế - xã hội; năm 2017, chỉ đạo tiến hành rà soát 26/298 kết luận thanh tra về kinh tế - xã hội, 14 kết luận thanh tra của sở, ngành, ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và 12 kết luận thanh tra của Cục Thuế tỉnh; năm 2018, chỉ đạo tiến hành rà soát 64/299 kết luận thanh tra về kinh tế - xã hội và 1/4 thông báo kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước; chỉ đạo Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập đoàn kiểm tra các dự án đầu tư sử dụng vốn ngoài ngân sách trên địa bàn chậm tiến độ, sử dụng đất không hiệu quả... Qua đó, kịp thời chấn chỉnh, đôn đốc các cơ quan, đơn vị nghiêm túc thực hiện kết luận thanh tra, đồng thời phòng ngừa sai phạm, phát sinh tiêu cực mới trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
Thứ năm, thông qua việc ban hành Quyết định số 1573-QĐ/TU, ngày 24-11-2014, của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, về “Quy định trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp trong việc tiếp thu góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân”; chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở, quy ước, hương ước ở khu dân cư với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tiếp tục phát huy tốt vai trò hoạt động của các ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng, nhất là trong công tác xây dựng nông thôn mới; đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp để ngày càng sâu sát với thực tiễn, gần dân, hiểu dân và đồng cảm với dân.
Đối với cấp huyện và cơ sở, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được quy định trong quy chế làm việc, các cấp ủy đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo của mình thông qua cơ chế kiểm tra, đánh giá đối với chính quyền cùng cấp trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Một số đơn vị, như Thành ủy Ninh Bình, Thành ủy Tam Điệp, Huyện ủy Kim Sơn tiến hành đánh giá hằng tháng đối với chính quyền trong việc cụ thể hóa các nghị quyết lãnh đạo của Đảng thông qua hệ thống biểu chấm điểm (từ xây dựng kế hoạch, chương trình hành động, quán triệt, triển khai, bố trí nguồn lực, đến tiến độ, chất lượng thực hiện...) để xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ hằng tháng và xếp loại cuối năm, qua đó là cơ sở đánh giá chính quyền và người đứng đầu chính quyền. Thành ủy Ninh Bình thực hiện nhắc nhở, phê bình bằng văn bản đối với cán bộ không thực hiện đúng yêu cầu chỉ đạo của cấp ủy; cán bộ bị phê bình đến lần thứ 2 sẽ bị hạ một mức xếp loại, đến lần thứ 3 sẽ bị điều chuyển công tác. Thành ủy Ninh Bình đã phân công công tác khác đối với 1 chủ tịch ủy ban nhân dân phường; Thành ủy Tam Điệp đã cho thôi giữ chức vụ đối với 1 phó bí thư đảng ủy, điều chuyển công tác 1 phó chủ tịch hội đồng nhân dân phường do không hoàn thành nhiệm vụ, không đáp ứng được yêu cầu công tác...
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng là căn cứ quan trọng để đánh giá, xếp loại chính quyền; đánh giá, xếp loại tập thể và cá nhân các đồng chí lãnh đạo chính quyền, nhất là người đứng đầu, với nguyên tắc người đứng đầu chính quyền không được xếp loại cao hơn mức xếp loại của tập thể lãnh đạo hoặc tổ chức đảng trong các cơ quan chính quyền. Hằng năm, căn cứ vào kết quả thực hiện nghị quyết của Đảng, những chỉ tiêu, sản phẩm cụ thể, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đều tiến hành đánh giá, xếp loại Đảng đoàn Hội đồng nhân dân tỉnh, Ban Cán sự đảng Ủy ban nhân dân tỉnh, tập thể lãnh đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và cá nhân các đồng chí lãnh đạo chính quyền theo phân cấp. Theo đó, thực hiện việc đánh giá theo hướng “Ai giao việc - người đó đánh giá”, do vậy, việc đánh giá ngày càng có cơ sở vững chắc, thực chất, khách quan hơn.
Có thể khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh trong nhiệm kỳ 2015 - 2020. Đến nay, tuy mới được hơn nửa nhiệm kỳ, nhưng nhiều chương trình công tác, nhiệm vụ, chỉ tiêu đã đạt, gần đạt, hoặc có chỉ tiêu đã đạt và vượt xa so với yêu cầu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra.
Một số khó khăn, hạn chế
- Việc quán triệt, học tập nghị quyết của Đảng ở một số cấp ủy còn mang tính hình thức; việc cụ thể hóa nghị quyết thành kế hoạch, chương trình hành động có nơi, nhất là ở cấp cơ sở, còn chung chung, cá biệt có nơi sao chép của cấp trên, của đơn vị khác. Nghị quyết được ban hành nhưng các điều kiện bảo đảm cho việc triển khai thực hiện còn hạn chế, nhất là điều kiện về nguồn lực.
- Một số cấp ủy vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo đối với hoạt động của chính quyền, nhất là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, đất đai, giải phóng mặt bằng và một số lĩnh vực nhạy cảm khác.
- Việc thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy ở một số địa phương chưa nghiêm, cá biệt có nơi chính quyền lấn át cấp ủy; cấp ủy, mà người đứng đầu là đồng chí bí thư chưa phát huy hết trách nhiệm, quyền hạn được giao, dẫn đến vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với chính quyền ở địa phương này bị mờ nhạt.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu về công tác xây dựng Đảng ở một số nơi yếu kém về cả phẩm chất và năng lực, thậm chí kém hơn cán bộ công tác khối chính quyền, dẫn đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu bị suy giảm, không phát huy hết được năng lực cầm quyền của mình; không đủ năng lực để kiểm tra, đánh giá chính quyền trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
- Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chỉ đạo làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, dẫn đến chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao. Nhiều khuyết điểm, sai phạm của cán bộ, đảng viên đang giữ các chức vụ lãnh đạo chính quyền chậm hoặc không được phát hiện. Ở một số tổ chức đảng, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, thiếu đoàn kết, do đó làm ảnh hưởng đến vai trò lãnh đạo của Đảng.
Một số bài học chủ yếu
Một là, luôn quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, trên cơ sở đó vận dụng sáng tạo, linh hoạt trong xây dựng kế hoạch, chương trình hành động sát với thực tiễn, có tính khả thi, thông qua các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực; đồng thời phân công rõ trách nhiệm và thời gian thực hiện, tránh chung chung. Nghị quyết của Đảng khi được ban hành phải đi vào cuộc sống, phải được các cấp chính quyền xây dựng kế hoạch, lộ trình thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả.
Hai là, thường xuyên chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; kỷ luật, kỷ cương phải nghiêm minh. Quan tâm xây dựng hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở vững mạnh; thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng, quy chế làm việc của cấp ủy. Đảng có trong sạch, vững mạnh, có trí tuệ và đạo đức thì mới đủ năng lực, uy tín, vị thế để lãnh đạo chính quyền cụ thể hóa và tổ chức thực hiện hiệu quả nghị quyết của Đảng. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, tiền phong, năng động, sáng tạo, thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.
Ba là, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng, nhất là việc tự kiểm tra của các cấp, các ngành. Việc kiểm tra phải gắn với biểu dương, khen thưởng, khắc phục, sửa chữa những hạn chế, thiếu sót và xử lý nghiêm minh những sai phạm thì mới phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng.
Bốn là, gắn trách nhiệm của tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong việc quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Phải xây dựng tổ chức, bộ máy cán bộ trong sạch, vững mạnh, “vừa hồng, vừa chuyên”, nhất là bố trí cán bộ là lãnh đạo chính quyền các cấp phải có tính đảng cao; đồng thời thường xuyên kiểm tra, giám sát để kiểm soát quyền lực của người có chức, có quyền.
Năm là, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền trong điều kiện Đảng cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà mục tiêu là xây dựng chính quyền vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát huy. Khắc phục tình trạng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền. Đảng phải hóa thân trong Nhà nước để lãnh đạo xã hội; phải lãnh đạo hoàn thiện hệ thống pháp luật vừa bảo đảm tính đảng, vừa có tính khoa học, chặt chẽ, để quản lý xã hội bằng pháp luật có hiệu quả; phải có sự thống nhất, đồng bộ giữa xây dựng hệ thống các quy định của Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước./.
Đại hội IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - Một sinh hoạt chính trị trọng đại trong sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng  (06/09/2019)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
- Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam