Đóng góp của đồng chí Nguyễn Văn Linh cho sự nghiệp đổi mới đất nước
TCCSĐT - Những thành tựu bước đầu của thời kỳ đổi mới ở nước ta (1986-1991) có ý nghĩa tạo nền tảng cho sự nghiệp đổi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội cho những năm tiếp theo. Thành công đó gắn liền với tên tuổi của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư của Đảng.
Dựa trên tư duy mới, Đại hội đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Bố trí lại cơ cấu kinh tế, tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn là sản xuất lương thực - thực phẩm, sản suất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đại hội coi việc phát triển nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu để mở đường cho các ngành kinh tế khác của đất nước phát triển. Theo đó, lưu thông phân phối hàng hóa phải được đổi mới, chấn chỉnh nhằm góp phần tạo sự ổn định xã hội.
Trách nhiệm nặng nề của lịch sử đặt lên vai người lãnh đạo cao nhất của Đảng. Nhận rõ cả vinh dự, trách nhiệm và khó khăn, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã phát biểu trước Đại hội: “Trình độ của Tổng Bí thư so với nhiều đồng chí trong Bộ Chính trị, trong Ban Chấp hành không xa cách là bao nhiêu, điều cốt yếu phải huy động được sức mạnh của tập thể, bổ sung cho nhau mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, giữ vững nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(1). Trong suốt nhiệm kỳ Đại hội, đồng chí luôn tuân thủ nguyên tắc đó. Một sự đổi mới về phong cách, tác phong công tác đáng học tập. Đồng chí đã cùng Đảng, Nhà nước tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới toàn diện đất nước nhưng gắn với việc giữ vững định hướng, mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội trên một số nội dung như sau:
Một là, đột phá vào khâu yếu nhất, tạo sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế. Thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, nhưng trong hàng loạt công việc có quan hệ biện chứng với nhau cần phải biết nên bắt đầu từ đâu? Đòi hỏi một bản lĩnh sáng suốt để chọn quyết sách mà không được phép sai lầm, vì nếu phạm sai lầm có thể sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc. Sau khi cân nhắc suy nghĩ, đồng chí đã chỉ đạo phải nhanh chóng hình thành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước để thúc đẩy đổi mới. Trước mắt, phải đột phá vào vấn đề phân phối, lưu thông để tháo gỡ những “rối ren hỗn loạn” nhằm ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân.
Trong Hội nghị Trung ương lần thứ hai, khóa VI, Đồng chí đã nêu rõ: “Phân phối, lưu thông bao gồm nhiều bộ phận hợp thành như giá cả, lưu thông vật tư hàng hóa, tài chính, ngân sách, ngân hàng, tiền lương… phân phối, lưu thông vừa là điều kiện vừa là kết quả của sản xuất. Như vậy, giải quyết vấn đề phân phối, lưu thông có liên quan chặt chẽ với quá trình sản xuất, với tổng thể cơ chế quản lý nền kinh tế quốc dân… Làm được việc đó chắc chắn sẽ là bước khởi đầu tốt đẹp tạo đà chuyển biến mạnh mẽ cho những bước sau”(2). Đồng chí đã chỉ đạo phải thực hiện ngay “4 giảm”, đó là giảm bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động để góp phần giải phóng sức sản xuất. Biện pháp thực hiện là mở rộng giao lưu hàng hóa, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh, bắt đầu thực hiện giá cả theo thị trường. Quá trình triển khai Nghị quyết của Hội nghị đã có tác động mạnh đến quá trình sản xuất, lưu thông, tháo gỡ những ách tắc cho “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất. Chỉ riêng biện pháp mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ” đã có tác dụng to lớn và tức thời với nhiều địa phương trong cả nước.
Thắng lợi bước đầu trong đổi mới phân phối, lưu thông tạo được niềm tin lớn trong toàn Đảng, toàn dân, làm cơ sở để đồng chí chỉ đạo đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đặc biệt là vấn đề giải phóng sức sản xuất trong nông nghiệp… Câu hỏi vì sao một nước sản xuất nông nghiệp giàu tiềm năng như nước ta mà để diện thiếu đói cứ lan rộng, có lúc lên tới 7 triệu người... luôn được đồng chí đặt ra và từ đó xác định việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu. Tháng 3-1987, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp đánh giá về sản xuất nông nghiệp trong cả nước. Tháng 4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10-NQ/TW về “Đổi mới quản lý trong nông nghiệp”, đã xác định hộ nông dân trong nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, được nhận đất khoán lâu dài, được tự chủ kinh doanh trên đất khoán, khuyến khích mọi hình thức đầu tư vào nông nghiệp... Nghị quyết 10 đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất cho nông thôn. Chỉ sau một năm, từ một nước thiếu ăn, hằng năm phải nhập 50 vạn tấn lương thực, năm 1988 nước ta đã tự giải quyết được lương thực và năm 1989 Việt Nam xuất khẩu được hơn 1 triệu tấn gạo.
Tháng 11-1987, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 217/HĐBT về “Đổi mới kế hoạch hóa và hạch toán kinh doanh chủ nghĩa xã hội đối với xí nghiệp quốc doanh”. Theo quyết định này, doanh nghiệp quốc doanh phải tự chủ trong sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán độc lập, lấy thu, bù chi, có lãi.
Tháng 12-1987, Chủ tịch nước đã ban hành Luật Đầu tư nước ngoài nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam với nhiều điều khoản ưu đãi. Cùng trong năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng đã xây dựng một chính sách thuế mới và mở rộng hoạt động của ngân hàng, các ngân hàng chuyên doanh, ngân hàng thương mại được thành lập và hoạt động theo cơ chế hạch toán; ngành kinh doanh vàng bạc, đồ trang sức quý được tự do hóa, mọi thành phần kinh tế đều được phép kinh doanh. Thị trường ngoại hối được mở cửa, tỷ giá hối đoái được định giá theo tỷ giá quốc tế, làm lành mạnh thị trường tiền tệ ngoại hối. Với những bước chuyển đổi cụ thể cơ chế giá tài chính, tiền tệ ngoại hối đến năm 1989 thị trường giá cả ở nước ta đã chuyển hoàn toàn sang chế độ một giá. Các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế chỉ còn nghĩa vụ duy nhất là nộp ngân sách.
Tháng 9-1989, thực hiện bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ban hành quyết định miễn 50% thuế nông nghiệp trong 2 năm (1989-1990) cho các hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất và nông dân. Về công nghiệp và dịch vụ, Hội đồng Bộ trưởng đã ra các nghị định số 27, 28, 29 và cụ thể hóa các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tập thể trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, xây dựng, vận tải… các nghị định trên tạo niềm tin và khuyến khích các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vốn sản xuất - kinh doanh, kinh tế đất nước trong 2 năm tăng trưởng mạnh so với những năm trước.
Hai là, đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Là một nhà chính trị, kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và toàn dân tộc đã lựa chọn, đồng chí đưa ra quan điểm: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới củng cố và phát huy được thành quả của độc lập dân tộc, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho nhân dân, phồn vinh cho Tổ quốc”(3). Những người cộng sản và nhân dân lao động nước ta bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng phải kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, dứt khoát không chấp nhận con đường đa nguyên đa đảng. Do vậy, đổi mới phải có nguyên tắc, đó là đổi mới nhưng không đổi màu, không đổi hướng, đổi mới để hoàn thành tốt hơn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng chí đã khẳng định: “Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội ta là một tất yếu khách quan, đó không thể và cũng không phải là sự áp đặt chủ quan ý chí của Đảng đối với lịch sử mà là sự giao phó của lịch sử thông qua sự sàng lọc nghiêm khắc”(4). Đồng chí phê phán những quan điểm chính trị không phù hợp với cách mạng nước ta, trái với đường lối của Đảng. Nghiêm khắc kiểm điểm, kỷ luật Đảng đối với cán bộ đảng, đảng viên, kể cả ủy viên Bộ Chính trị mang nặng tư tưởng giáo điều đòi đa nguyên, đa đảng không chịu tiếp thu ý kiến phê bình của Đảng. Tư duy mới về chủ nghĩa xã hội và quyết định quan trọng thể hiện quyết tâm làm trong sạch Đảng đã thể hiện một tư duy mới của đồng chí Nguyễn Văn Linh về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước, kịp thời ngăn chặn những biểu hiện tư tưởng dao động trong một bộ phận đảng viên, cán bộ, đẩy lùi những tiêu cực chính trị.
Ba là, đổi mới phong cách và lề lối làm việc. Ngày 05-6-1987, đến khai mạc lớp đầu tiên nghiên cứu Nghị quyết Đại hội Đảng VI tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, đồng chí đã khẳng định cách mạng nước ta đang đòi hỏi cấp bách phải đổi mới cách nghĩ và cách làm một cách sâu sắc toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Chỉ có như vậy mới mở ra trình độ mới trong nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khơi dậy được tính chủ động sáng tạo vô tận của nhân dân lao động, phát huy được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội để đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng chí cho rằng, đổi mới phong cách, lề lối làm việc phải hướng vào phát triển sản xuất, tạo lập cuộc sống vật chất, tinh thần phong phú và lành mạnh theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc, đầu tiên là phải quán triệt phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ, nói đúng sự thật, nói đi đôi với làm, nâng cao chất lượng cán bộ. Vì sau khi có đường lối đúng, thì cán bộ là khâu quyết định nhất để biến đường lối thành hiện thực. Bởi vậy, muốn đổi mới thắng lợi phải đồng thời đổi mới cán bộ. Đồng chí đã chỉ ra, chúng ta không chỉ đổi mới cán bộ theo hình thức chỉ căn cứ vào độ tuổi, bằng cấp, nguồn… mà phải căn cứ chủ yếu vào nhiệm vụ phải hoàn thành khẩn trương và có hiệu quả để bố trí cán bộ. Hiện nay, phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực cán bộ. Theo đồng chí, phong cách cần có của người cán bộ, đảng viên trong công cuộc đổi mới là phải gắn lời nói với việc làm, có nhiệt tình cách mạng cao, thống nhất ý chí và hành động, tri thức khoa học vững chắc, dám nhìn thẳng vào sự thật, công khai hóa hoạt động, đi sâu đi sát thực tiễn, biết giải quyết công việc trên cơ sở phát huy quyền làm chủ và tính chủ động của nhân dân lao động.
Bản thân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh luôn thể hiện phong cách mới của người cán bộ Đảng, tuy bận rất nhiều công việc nhưng đồng chí luôn dành thời gian đi nắm tình hình ở cơ sở. Theo thống kê cho thấy, trong nhiệm kỳ đồng chí đã đi thăm 43 đơn vị, địa phương, gia đình, trường học trong cả nước. Tác phong sâu sát cơ sở, đã giúp đồng chí nắm chắc, hiểu rõ tình hình đời sống xã hội của nhân dân để đưa ra sự chỉ đạo đúng đắn, kịp thời, hiệu quả.
Để đẩy mạnh đổi mới tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, từ ngày 26-4-1987, đồng chí đã trực tiếp viết các bài đăng trên Báo Nhân dân. Tiếp sau đó, đồng chí thường xuyên viết bài nêu những vấn đề xã hội cần được quan tâm, và những vụ việc tiêu cực cần phải làm ngay, đẩy mạnh tự phê và phê bình, với bút danh N.V.L được hiểu “nói và làm”. Những bài báo về những việc cần làm ngay của đồng chí nhanh chóng được lan tỏa trong dư luận, đại đa số nhân dân, cán bộ đảng viên đồng tình ủng hộ. Qua các bài viết của tác giả N.V.L, nhiều tỉnh Đảng bộ, Thành ủy đã có nghị quyết, chỉ thị hưởng ứng những việc cần làm ngay đẩy mạnh chống tiêu cực, biểu dương những gương tốt đang nảy nở tại địa phương.
Những việc cần làm ngay đề cập nhiều lĩnh vực xã hội, lĩnh vực nào tác giả cũng có những phát hiện mới và nêu cách giải quyết cụ thể theo tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật” nên đã tranh thủ được sự đồng tình và hưởng ứng rộng rãi của công luận, tạo ra hiệu quả to lớn, góp phần đẩy lùi tiêu cực, xây dựng niềm tin vào công cuộc đổi mới trong nhân dân, đặc biệt là làm chuyển biến mạnh về phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh - Nhà yêu nước, người Cộng sản nhiệt huyết, kiên định, người cán bộ lãnh đạo tài năng của Đảng ta đã có nhiều công lao đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời, đồng chí có nhiều công lao trong bước đầu tìm tòi và đặt nền móng cho công cuộc đổi mới của đất nước. Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã kiên định lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tộc thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, dấu ấn để lại là thực hiện bước đầu sự nghiệp đổi mới của đất nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị trong nước, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng mối quan hệ đối ngoại với nhiều nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng giữ vững độc lập của dân tộc, hợp tác cùng phát triển, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế./.
---------------------------------------------
(1) Nguyễn Văn Linh, Nhà lãnh đạo kiên định và sáng tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.97
(2) Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1998, tập 3, tr.50
(3) Nguyễn Văn Linh, Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.272
(4) Nguyễn Văn Linh, Đổi mới để tiến lên, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1998, tập 3, tr.25
Khắc phục ảnh hưởng của tư tưởng lạc hậu trong xây dựng con người Việt Nam mới hiện nay  (05/08/2015)
Việt Nam - EU: Thống nhất về Hiệp định Thương mại tự do  (05/08/2015)
Lễ Kỷ niệm 85 ngày Tạp chí Cộng sản ra số đầu và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh lần thứ hai  (04/08/2015)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển