Quản lý nhà nước đối với báo chí ở nước ta
TCCSĐT - Mục đích của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu thông tin của người dân, bảo đảm quyền tự do báo chí và ngôn luận.
Nhận thức về quản lý nhà nước đối với báo chí
Ở nước ta, từ khi báo chí cách mạng xuất hiện (21-6-1925) tới nay, mục tiêu ngày càng cao của nó là thiết thực phục vụ lợi ích ngày một nhiều của nhân dân. Luật Báo chí (năm 1989) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí (năm 1999) quy định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện truyền thông đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân”. Vì thế, báo chí cũng là một đối tượng cần sự quản lý của Nhà nước.
Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật đạt tới mục đích đề ra và theo đúng ý chí của người quản lý. Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm bảo đảm sự phục tùng và sự thống nhất trong quản lý. Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, được sử dụng quyền lực nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp để quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quản lý nhà nước đối với báo chí là những hoạt động của bộ máy chính quyền hướng tới sự bảo đảm để báo chí hoạt động ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Cũng như bất kỳ dạng quản lý xã hội nào khác, quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy nhà nước - là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động của các tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy hành pháp từ Trung ương đến cơ sở, để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của nhân dân.
Như vậy, để đạt tới tự do chân chính của báo chí cần phải thấy rõ chủ thể, khách thể, đối tượng cũng như mục đích của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí, trong đó chủ thể quản lý là các cơ quan trong bộ máy hành pháp của Nhà nước hay các cá nhân có thẩm quyền quản lý chuyên ngành về hoạt động báo chí được Nhà nước trao quyền về quản lý nhà nước đối với báo chí. Khách thể của quản lý nhà nước đối với báo chí là trật tự quản lý trong quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập mối quan hệ giữa con người với con người. Đối tượng của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí là tất cả những tổ chức, cá nhân thực hiện những hoạt động liên quan đến báo chí. Mục đích của hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí là phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu thông tin của người dân, bảo đảm quyền tự do báo chí và ngôn luận.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác quản lý nhà nước về báo chí
Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò của báo chí và truyền thông đối với đời sống xã hội. Điều này được thể hiện qua nhiều chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách, của Nhà nước với những vấn đề cơ bản sau:
Một là, công tác báo chí là bộ phận cấu thành hữu cơ trong hoạt động của Đảng ta, là yếu tố cấu thành hoạt động tư tưởng, lý luận; là vũ khí xung kích trên mặt này. Báo chí có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ chức. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của C. Mác - Ph. Ăng ghen - V.I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng ta.
Hai là, báo chí phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Báo chí phải góp phần trực tiếp, thiết thực, hiệu quả cho sự nghiệp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu chính đáng: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên, việc xây dựng lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giáo dục lòng tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, khi mà giá trị lợi ích đang chi phối nhiều giá trị khác, khi mà chủ nghĩa cá nhân được kích thích là một vấn đề hoàn toàn không dễ dàng. Trong khi xây dựng chủ nghĩa xã hội - xây dựng cái tốt, cái đẹp, cái ưu việt, cái hơn hẳn lại không thể một sớm một chiều. Vì thế, hơn bất kỳ lúc nào những người làm công tác tuyên truyền, định hướng, trong đó có những người hoạt động trên lĩnh vực báo chí phải có đạo đức cách mạng, kiên trì, nhiệt thành, trung thành, hiểu biết và tính chuyên nghiệp cao.
Ba là, báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu đa dạng của hoạt động báo chí.
Bốn là, Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, bằng và thông qua Nhà nước, thông qua công tác tổ chức - cán bộ, thông qua giám sát, kiểm tra hoạt động thường xuyên trong thực tiễn; bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị.
Năm là, cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng của Đảng, là nhà tuyên truyền vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhà báo là chủ thể tích cực trong quá trình hoạt động báo chí, đồng thời là nhân tố tích cực bảo đảm để công tác quản lý nhà nước về báo chí có hiệu quả.
Những nguyên tắc căn bản trong quản lý nhà nước để báo chí hoạt động sáng tạo
- Đảng lãnh đạo báo chí. Đảng ta đã xác định báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể và là diễn đàn của nhân dân, qua đó kết nối Đảng với quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu cao cả, nhân văn của Đảng là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Mục tiêu đó cũng chính là định hướng để báo chí hoạt động. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: Hướng báo chí xuất bản làm tốt chức năng tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu gương tốt, việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán những hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin, khắc phục khuynh hướng “thương mại hóa” trong hoạt động báo chí xuất bản.
Trong suốt chặng đường cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí nước ta đã có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng; lành mạnh hóa các quan hệ xã hội; đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, những khó khăn trong nước, không ít người làm báo thiếu bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức; một số tờ báo, cơ quan quản lý báo chí chưa ngang tầm làm cho tình hình hoạt động báo chí chưa thật lành mạnh. Nhiều ý kiến của bạn đọc chân chính đã đề xuất, nên chăng cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát báo chí thật chặt chẽ và linh hoạt. Điều đó giúp cơ quan báo chí chống xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích; chống xu hướng “né” chính trị, “trung lập hóa” bảo đảm cho báo chí phát triển lành mạnh, thực sự gắn chặt và bám sát với thực tiễn phát triển của đất nước, của nhân dân. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát còn thể hiện trách nhiệm của Đảng đối với hệ thống báo chí. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm, tạo điều kiện, phát hiện những sai lầm nhược điểm để khắc phục. Có thể khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với báo chí không những không làm hạn chế việc thông tin tuyên truyền của báo chí, sự tự do sáng tạo của người làm báo mà còn giúp báo chí phát triển đúng theo mục tiêu, định hướng, tôn chỉ, mục đích của mình và người làm báo ngày càng được bạn đọc tin yêu.
- Nhà nước quản lý báo chí. Nhà nước cụ thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành hệ thống chính sách, pháp luật… tạo nên hành lang pháp lý cho hoạt động của báo chí. Đến nay, hệ thống văn bản quản lý, chế độ, chính sách đối với báo chí nước ta đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí theo quy định của Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật vẫn còn nhiều bất cập, đòi hỏi phải khắc phục, sửa chữa.
Sự quản lý của Nhà nước còn thể hiện trong công tác quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí nhằm tạo sự thống nhất, tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin, tuyên truyền phục vụ nhân dân; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý kịp thời các hiện tượng, vụ việc phát sinh cụ thể…
Ngoài những nguyên tắc chung nhất nêu trên, hoạt động quản lý báo chí là hoạt động đặc thù cần lưu ý một số vấn đề sau:
Một là, tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của người dân. Đây được xem là nguyên tắc hiến định khi được quy định cụ thể tại Điều 69 - Hiến pháp năm 1992 sửa đổi: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin... theo quy định của pháp luật. Quy định này đã được cụ thể hoá tại Điều 12, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Cụ thể, Điều 4, Luật Báo chí cũng quy định rõ: Công dân có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và trên thế giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo. Gửi tin bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; phát biểu ý kiến về tình hình trong nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên các tổ chức đó.
Như vậy, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí được công khai rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống ngay từ những văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp.
Để thực hiện được nguyên tắc này, Nhà nước cần tạo ra cơ chế pháp lý phù hợp với các loại hình hoạt động báo chí nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần đề ra một phương thức hướng các hoạt động báo chí tuân thủ pháp luật nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các cơ quan chức năng thuận lợi hơn trong quá trình quản lý.
Hai là, phải bình đẳng trong thụ hưởng thành quả báo chí của tất cả công dân. Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách tạo điều kiện cho xuất bản, phát hành đến với nhân dân các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây được xem là nguyên tắc thể hiện tính nhân văn sâu sắc với mục tiêu nâng cao dân trí, đem thành quả của hoạt động báo chí tới mọi thành phần, mọi đối tượng trong xã hội.
Muốn thực hiện tốt được nguyên tắc này, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên để người dân có thể tiếp cận với các ấn phẩm của nhiều loại hình báo chí khác nhau. Huy động các nguồn lực khác nhau để bảo đảm sự hoạt động hài hòa của cơ quan báo chí cũng như phục vụ tốt nhất nhu cầu truyền thông của nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội. Đồng thời, Nhà nước cần chú trọng tạo ra các chính sách đẩy mạnh sự phát triển của các cơ quan báo chí để sẵn sàng phục vụ nhân dân tại các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.
Ba là, đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự do ngôn luận làm trái pháp luật. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí có sự ảnh hưởng nhất định đến an ninh chính trị của quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi mà quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận được xem như quyền cơ bản của con người mà các thể chế chính trị đều phải coi trọng. Thực tế, các thế lực thù địch lợi dụng báo chí để chống phá Nhà nước, chống phá chế độ mà Việt Nam theo đuổi. Âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch luôn là mối nguy cơ đe doạ an ninh dân tộc. Vì thế, hơn lúc nào hết cần phải ngăn chặn, đấu tranh đập tan mọi mưu đồ lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để chống phá Nhà nước, chống phá chế độ. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999 mặc dù khẳng định sự tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng cũng đồng thời tạo ra rào chắn hướng hoạt động của báo chí vào bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân: “báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do nguôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân”. Đây là quan điểm chung và thống nhất nhằm ngăn cản việc sử dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận để phá hoại hoà bình, độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.
Cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước đối với báo chí
Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc xây dựng khung khổ pháp lý cho hoạt động báo chí. Các bản Hiến pháp: năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đều khẳng định quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và xác định đó là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Ngoài đạo luật cơ bản là Hiến pháp và trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến báo chí như Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế độ kiểm duyệt báo chí; Luật số 100/SL-L-002 ngày 20-5-1957 quy định chế độ báo chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định 197/Ttg ngày 9-7-1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo chuyên nghiệp và Nghị định số 298/Ttg ngày 9-7-1957 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí 1957; Nghị định 133/HĐBT ngày 20-4-1992 của HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cường công tác quản lý báo chí - xuất bản; Thông tư 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ Văn hoá - thông tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí… Các văn bản này thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau đối với hoạt động báo chí và bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng cơ sở pháp lý cho quản lý hoạt động báo chí của cơ quan có thẩm quyền. Ngày 28-12-1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí, ngày 2-1-1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo chí nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957, và ngày 12-6-1999, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí và có hiệu lực cho đến nay. Ngày 26-4-2002, Chính phủ ban hành Nghị định 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí. Với việc ban hành Luật Báo chí năm 1989 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999 đã khắc phục được những hạn chế của các văn bản quản lý trước đó, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho hoạt động quản lý nhà nước về báo chí.
Cơ quan quản lý nhà nước về báo chí
Trải qua các bản hiến pháp khác nhau có sự khác nhau trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhà nước. Chính vì vậy, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí cũng có sự thay đổi qua mỗi thời kỳ lịch sử. Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992 cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí được quy định cụ thể như sau:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
2. Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về báo chí theo quy định của Chính phủ.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
4. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý nhà nước về báo chí ở địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nhận thức đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước qua quản lý nhà nước về báo chí ở nước ta hiện nay là điều kiện căn bản để báo chí chân chính tự do sáng tạo, cống hiến nhiều nhất cho nhân dân./.
Hội đàm cấp cao nguyên thủ hai nước Việt - Trung  (20/06/2013)
Thủ tướng tiếp Đại sứ, Trưởng cơ quan đại diện Việt Nam  (19/06/2013)
Trưởng ban Ban Tổ chức Trung ương tiếp cựu Thủ tướng Nhật Bản  (19/06/2013)
Chủ tịch nước gửi điện mừng tới tân Tổng thống Iran  (19/06/2013)
Ra mắt Trung tâm Phụ nữ trong Chính trị và Hành chính công  (19/06/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm