Khắc phục những khuyết điểm, hạn chế trong công tác phòng, chống tham nhũng

Cao Văn Thống Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu, Ủy ban Kiểm tra Trung ương
16:04, ngày 11-07-2012
TCCS - Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Quốc hội khóa XII ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng; Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Kế hoạch triển khai Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Những chủ trương, chính sách đó thể hiện quyết tâm chính trị to lớn của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong sạch, vững mạnh.

Công tác phòng, chống tham nhũng - một số kết quả bước đầu

Việc quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành công tác phòng, chống tham nhũng được tiến hành một cách nghiêm túc với nhiều hình thức, nội dung, biện pháp thiết thực. Gắn công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng với việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng. Báo chí tích cực phối hợp, tiếp cận với các cơ quan, đơn vị, địa phương để thu thập, đưa tin, bài kịp thời, số lượng ngày càng tăng, về công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý các vụ việc tham nhũng, cổ vũ những cá nhân, tập thể tích cực chống tham nhũng. Các bộ, ban, ngành, địa phương đã xây dựng văn bản thông tư, quy định, quy chế kịp thời, đồng bộ và tương đối toàn diện, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thực hiện tốt công tác phòng, chống tham nhũng.

Từ năm 2007 - 2010, cả nước có 276 người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách. Ngành thanh tra triển khai 53.954 cuộc thanh tra, kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính đối với 1.300 tập thể, 11.022 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xử lý 439 vụ việc; phát hiện thiếu sót, sai phạm về kinh tế 47.364 tỉ đồng, 7.280.236 USD; kiến nghị thu hồi nộp ngân sách nhà nước 18.035 tỉ đồng, 993.978 USD; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý 21.807 tỉ đồng.  Các cơ quan kiểm toán nhà nước đã tiến hành 138 cuộc kiểm toán đối với các bộ, cơ quan ở Trung ương; 140 cuộc đối với các tỉnh, thành phố; 89 cuộc trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và chương trình mục tiêu quốc gia; 117 cuộc đối với doanh nghiệp và ngân hàng; 10 cuộc kiểm toán chuyên đề. Qua đó phát hiện, kiến nghị xử lý, tăng thu cho ngân sách trong 4 năm (2006 - 2009) 75.579 tỉ đồng.

Từ năm 2006 - 2010, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện đã truy tố 1.393 vụ với 2.784 bị can; xét xử 1.382 vụ với 2.849 bị cáo về tội tham nhũng.

Các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy, chính quyền các cấp cũng chỉ đạo, ban hành văn bản, quy định bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định về quản lý cán bộ nhằm bảo đảm công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Chính phủ đã tăng cường chỉ đạo, đôn đốc các cấp, các ngành rà soát cơ chế, chính sách, chấn chỉnh các chương trình, dự án đầu tư không có hiệu quả; sửa đổi, bổ sung các chế độ, định mức, tiêu chuẩn cho phù hợp với thực tế...

Việc xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện nghiêm túc. Nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đã xây dựng và thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp. 38/38 cơ quan, tổ chức ở Trung ương thuộc diện phải xây dựng và ban hành quy định danh mục các vị trí công tác cần phải chuyển đổi đã ban hành quy định và tổ chức thực hiện.

Việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng đã được quan tâm thực hiện. Chính phủ ban hành Nghị định quy định việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức khi để xảy ra tham nhũng. Bộ Nội vụ ban hành Thông tư hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng đối với các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Một số bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành văn bản quy định về vấn đề này.

Công tác phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng được tăng cường, tạo sự răn đe, góp phần phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả. Thanh tra Chính phủ, thanh tra các bộ, ngành, địa phương, Kiểm toán Nhà nước đã có chương trình, kế hoạch hằng năm, đột xuất để tăng cường số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật. Trong đó tập trung vào các lĩnh vực quản lý đất đai, thu chi tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, thuế, cổ phần hóa doanh nghiệp.

Công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với các vụ án tham nhũng có chuyển biến rõ rệt. Sự phối hợp giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, viện kiểm sát, tòa án đã có sự chủ động, thường xuyên, chặt chẽ hơn. Nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, xử lý nghiêm minh. Một số vụ án tham nhũng tồn đọng từ nhiều năm trước nay được khởi tố, điều tra, xử lý dứt điểm, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Những khuyết điểm, hạn chế

Bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được, công tác phòng, chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng cũng còn có những hạn chế, khuyết điểm chủ yếu sau:

Trong chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện chưa thể hiện rõ được quyết tâm chính trị đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Không ít cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức chưa thường xuyên và thực sự quan tâm tới công tác phòng, chống tham nhũng; một số nơi, chương trình hành động, kế hoạch triển khai thực hiện còn sơ sài, hình thức; thiếu kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết để đánh giá thực trạng tình hình. Một số chủ trương, giải pháp lớn về phòng, chống tham nhũng chưa có sự thống nhất, đồng thuận, như mô hình tổ chức của ban chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng.

Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng chưa đồng đều, thường xuyên, liên tục và thiếu chiều sâu. Việc tuyên truyền, giáo dục mới chỉ tập trung vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Nội dung, hình thức tuyên truyền chưa thật sự phong phú, đa dạng, phù hợp; ở một số nơi còn mang tính hình thức, thiếu tính chiến đấu. Các phương tiện truyền thông đưa tin chủ yếu về các vụ việc, vụ án tham nhũng; tỷ lệ tin, bài nêu gương điển hình và tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách, quy định chiếm thời lượng thấp; số chuyên trang, chuyên mục về phòng, chống tham nhũng còn ít và chưa duy trì thường xuyên; cá biệt còn có biểu hiện thông tin phản ánh không đầy đủ, không đúng bản chất vụ việc, vụ án.

Công tác hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng chậm và chưa đồng bộ, một số quy định thiếu tính khả thi. Nhiều đề án về phòng, chống tham nhũng chậm tiến độ so với kế hoạch đã đề ra, có những quy chế, đề án tới nay vẫn chưa được ban hành. Còn chậm về tiến độ xây dựng các văn bản theo Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng(1). Một số quy định thiếu tính khả thi trong thực hiện nhưng chậm được điều chỉnh. Cơ chế về quản lý chưa đáp ứng yêu cầu công tác.

Việc triển khai thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng ở một số cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nghiêm túc, hiệu quả của nhiều giải pháp còn thấp. Công tác cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý còn nhiều hạn chế; năng lực, ý thức, phẩm chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức còn yếu kém; hiện tượng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp xảy ra ở nhiều lĩnh vực, chậm được chuyển biến đang là vấn đề bức xúc của xã hội hiện nay. Việc công khai, minh bạch trong nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa trở thành nền nếp thường xuyên; một số quy định về minh bạch trong thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử chưa được triển khai đầy đủ. Việc xây dựng và thực hiện quy tắc đạo đức nghề nghiệp ở một số nơi còn hình thức. Việc chuyển đổi vị trí công tác ở nhiều nơi còn nhầm lẫn với luân chuyển và điều động cán bộ. Việc thực hiện minh bạch tài sản, thu nhập đạt hiệu quả thấp, còn mang tính hình thức. Xử lý trách nhiệm người đứng đầu chưa phản ánh đúng thực trạng tình hình; còn có sự nhầm lẫn giữa xử lý người đứng đầu khi có sai phạm và xử lý trách nhiệm khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.

Công tác phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng còn hạn chế; số vụ án được phát hiện còn ít. Trong 5 năm qua, có 12 địa phương, qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo không chuyển sang cơ quan điều tra vụ việc tham nhũng nào để xem xét, xử lý hình sự. Các biện pháp phát hiện tham nhũng chưa được thực hiện đồng bộ, chủ yếu vẫn qua đơn tố cáo và qua hoạt động của các cơ quan chức năng cùng với việc đăng tải thông tin của báo chí. Việc phát hiện tham nhũng của các cơ quan giám sát, cơ quan quản lý hành chính cấp trên và tự phát hiện của các cơ quan, tổ chức, đơn vị vẫn còn yếu kém. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử nhiều vụ án tham nhũng còn hạn chế; có biểu hiện hữu khuynh, nể nang, lạm dụng việc bồi thường, khắc phục hậu quả để xử lý hành chính. Việc áp dụng hình phạt cho hưởng án treo chiếm tỷ lệ cao là chưa quán triệt đầy đủ tính nghiêm trọng và nguy hại của tội phạm tham nhũng. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý chủ yếu là ở cấp cơ sở và chỉ là đối tượng thừa hành; số vụ việc, vụ án có quy mô lớn được phát hiện, xử lý còn ít. Một số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng nghiêm trọng và vụ việc tham nhũng có yếu tố nước ngoài chậm được xem xét, kết luận.

Hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng còn thấp. Mô hình ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng chưa được sự thống nhất cao; hoạt động của ban chỉ đạo ở các bộ, ngành Trung ương, ở cấp huyện, cấp cơ sở chưa rõ nét. Quy định người đứng đầu Ban Chỉ đạo Trung ương và ban chỉ đạo cấp tỉnh chưa tạo được sự đồng thuận. Những quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Chỉ đạo Trung ương và ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng mới dừng lại ở những quy định chung, thiếu các quy định cụ thể. Các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng, mặc dù đã hoàn thiện về tổ chức, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc về mối quan hệ phối hợp trong hoạt động, thiếu các quy định có tính đặc thù; đội ngũ cán bộ còn hạn chế về năng lực, tính chuyên sâu.

Công tác giám sát về phòng, chống tham nhũng của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp chưa thường xuyên; số cuộc giám sát chuyên đề còn ít, tác dụng và hiệu quả còn thấp, nhất là đối với hội đồng nhân dân các cấp. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong phòng, chống tham nhũng chưa thật sự được phát huy theo chức năng, nhiệm vụ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu lực, hiệu quả phòng, chống tham nhũng.

Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay

Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội XI của Đảng đã nhận định: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội”(2). “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu... và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(3). Công tác phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn cách mạng hiện nay cần quyết tâm chính trị cao với những cơ chế, chính sách, biện pháp toàn diện, đồng bộ, mang tính đột phá, mạnh mẽ, quyết liệt, triệt để hơn nữa.

Một là, thực hiện kiên trì, kiên quyết, bền bỉ, liên tục, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng trên cơ sở chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa X, Luật Phòng, chống tham nhũng. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Hai là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Các cấp ủy đảng phải thực sự coi đây là một trong những trọng tâm công tác lớn; lựa chọn, bố trí những cán bộ có năng lực, bản lĩnh và phẩm chất đạo đức thực hiện công tác này; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc; đưa công tác này vào chương trình hoạt động của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, lấy kết quả làm một trong các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ. Tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức trong phòng, chống tham nhũng; làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình; chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng ngay trong từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, từ trong chi bộ, ngay tại cơ sở.  

Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và trong các tầng lớp nhân dân. Làm cho mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Triển khai có hiệu quả đề án đưa nội dung phòng, chống tham nhũng vào chương trình đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng. Gắn công tác phòng, chống tham nhũng với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Biểu dương, khen thưởng và nhân rộng kịp thời những tấm gương liêm chính, dũng cảm tố cáo, đấu tranh chống tham nhũng.

Bốn là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội nhằm phòng ngừa tham nhũng và bổ sung, hoàn thiện các quy định về phòng, chống tham nhũng. Sửa đổi, bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng cho phù hợp với tình hình thực tế; thực hiện nghiêm túc các quy định của Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, phụ cấp bảo đảm để cán bộ, công chức có mức thu nhập hợp lý. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước, về các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ. Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức theo quy định.

Năm là, hoàn thiện cơ chế, giải pháp phòng, chống tham nhũng thực sự có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng. Nghiên cứu, sửa đổi pháp luật theo hướng tăng hình thức phạt tiền, miễn trách nhiệm hình sự hoặc giảm hình phạt đối với những đối tượng có hành vi tham nhũng nhưng đã chủ động khai báo, khắc phục hậu quả. Có chính sách khoan hồng đối với những trường hợp nhận hối lộ nhưng đã tự giác khai báo. Hoàn thiện quy định xử lý tài sản tham nhũng; bổ sung quy định nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản, bảo đảm cho việc thu hồi, tịch thu tài sản do tham nhũng mà có. Ban hành khuôn khổ pháp lý riêng cho người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, trong đó quy định rõ những điều luật cơ bản, như bảo đảm bí mật danh tính và bí mật thông tin; thời hạn và trách nhiệm xử lý thông tin của cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham nhũng; các tình huống và các phương án thích ứng trong công tác bảo vệ an toàn tính mạng, tài sản, tinh thần, gia đình người tố cáo... Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời kỷ luật nghiêm những người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác...

Tiếp tục nghiên cứu việc áp dụng biện pháp kỹ thuật điều tra đặc biệt để phát hiện hành vi tham nhũng; ký hiệp định tương trợ tư pháp với một số nước. Sớm xây dựng đề án thành lập cơ quan giám định quốc gia để phục vụ công tác điều tra, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Sáu là, tăng cường tính công khai, minh bạch trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật. Sớm ban hành quy định về kiểm soát thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; thực hiện việc công khai tài sản một số chức danh chủ chốt trong diện phải kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập; quy định cụ thể về trách nhiệm giải trình đối với từng vị trí công tác trong bộ máy quản lý, nhất là trong quản lý đất đai. Công khai tài sản của cán bộ, công chức khi được đề bạt, bổ nhiệm và tham gia ứng cử, có cơ chế để xác minh, thẩm định việc kê khai tài sản, thu nhập. Ban hành các quy định nhằm tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án; hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật.

Bảy là, nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp quan tâm hơn đến việc đổi mới và tăng cường giám sát các hoạt động phòng, chống tham nhũng, trước hết là giám sát hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, từ đó, yêu cầu hoặc kiến nghị các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Có cơ chế, chế tài bảo đảm cho việc giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp có hiệu lực trên thực tế. Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân. Sớm ban hành Luật Tiếp cận thông tin để cơ quan, tổ chức, cá nhân, công dân có cơ sở, điều kiện tham gia thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.

Tám là, tiếp tục kiện toàn và nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của ban chỉ đạo các cấp và cơ quan chức năng về phòng, chống tham nhũng. Sơ kết, đánh giá cơ chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương, Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương, ban chỉ đạo cấp tỉnh, đơn vị chuyên trách và các cơ quan có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Trung ương 3 khóa X. Sớm sơ kết, đánh giá hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng nhiệm kỳ vừa qua, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm của các nước để tiếp tục điều chỉnh mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.

Cơ quan phòng, chống tham nhũng chuyên trách từ Trung ương tới địa phương cần thống nhất về mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm thực quyền và hoạt động chuyên sâu, chuyên nghiệp, có hiệu quả. Hoàn thiện cơ chế và tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương, đơn vị trong công tác phòng, chống tham nhũng; xây dựng, thực hiện cơ chế trao đổi, cung cấp thông tin về phòng, chống tham nhũng./.

---------------------------------------------

(1) Năm 2009 ban hành được 10 trong số 17 văn bản cần ban hành, năm 2010 mới ban hành được 6 văn bản trong số 31 văn bản cần ban hành. Nhiều văn bản khác phải điều chỉnh thời gian xây dựng

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172

(3) Văn kiện Đại hội XI đã dẫn,  tr. 173