Bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam - Vấn đề đặt ra và định hướng phát triển bền vững trong giai đoạn mới

Bùi Văn Huyền
PGS, TS, Viện Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
17:50, ngày 02-11-2019

TCCS - Mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã tỏ rõ tính ưu việt và sự phù hợp với bối cảnh, điều kiện cũng như định hướng phát triển kinh tế - xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện”(1). Tuy nhiên, việc khắc phục tồn tại và đề ra những định hướng cho phát triển an sinh xã hội trong giai đoạn mới là cần thiết hiện nay.

Với đà tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế ở Việt Nam hằng năm tạo thêm hàng triệu việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội_Ảnh: Thanh Cường

Kết quả bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra

Những kết quả đạt được của mô hình an sinh xã hội nước ta hiện nay thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, Việt Nam đã thiết lập được mô hình an sinh xã hội tương đối đầy đủ và toàn diện với 4 trụ cột chính là hỗ trợ việc làm và giảm nghèo; bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội; dịch vụ xã hội cơ bản. Các trụ cột của mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã vận hành tương đối hài hòa, đồng bộ, góp phần vào những thành tựu an sinh xã hội đáng kể trong những năm qua, được nhân dân trong nước và các tổ chức quốc tế công nhận. Dù tiếp cận theo vòng đời, theo sàn an sinh hay theo ứng phó rủi ro thu nhập thì mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đều bảo đảm có cơ chế, chương trình, chính sách hướng tới các nhóm đối tượng khác nhau, đáp ứng các nhu cầu an sinh tương đối toàn diện.

Thứ hai, trong mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã xác định tương đối rõ cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc, các cơ chế huy động và sử dụng nguồn lực, cơ chế đóng góp và thụ hưởng an sinh xã hội. Điều này giúp cho mô hình an sinh xã hội của Việt Nam vận hành trơn tru, bảo đảm đúng nguyên tắc toàn dân, chia sẻ, công bằng và bền vững. Bên cạnh nguồn lực nhà nước giữ vai trò quan trọng, còn có nguồn lực từ xã hội, đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, đóng góp tự nguyện của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.

Thứ ba, mô hình an sinh xã hội của Việt Nam liên tục được cải tiến, hoàn thiện nhằm mở rộng diện bao phủ, nâng cao khả năng hỗ trợ, mức hỗ trợ, bảo đảm tốt hơn các nhu cầu an sinh cơ bản của nhân dân. Các chương trình, chính sách an sinh xã hội được đổi mới có hiệu quả hơn, chế độ an sinh được mở rộng, đời sống nhân dân, trong đó có các nhóm cư dân yếu thế được cải thiện rõ rệt.

Thứ tư, mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đã thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ, đem lại những thành quả an sinh xã hội đáng khích lệ, được thế giới công nhận, như thành tích xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, y tế... Cụ thể, một số thành tựu nổi bật về an sinh xã hội Việt Nam đã đạt được như sau:

- Việt Nam đã đạt được thành tựu ấn tượng trong hỗ trợ tạo việc làm và giảm nghèo. Cùng với đà tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tạo điều kiện phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài đạt kết quả tốt nên hằng năm hàng triệu lao động có việc làm.

Giảm nghèo và giải quyết việc làm được thực hiện thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia và được quan tâm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức thấp (2% - 3%). Tỷ lệ nghèo giảm nhanh, hiện nay, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm xuống dưới 10% (theo chuẩn nghèo đa chiều).

- Bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng diện bao phủ và cải thiện chế độ bảo hiểm, đáp ứng tốt hơn nhu cầu an sinh của người lao động. Hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội (BHXH) được thành lập với bộ máy từ Trung ương tới địa phương. Hệ thống pháp luật về lao động và BHXH ngày càng được hoàn thiện. Các hình thức bảo hiểm được mở rộng với việc giới thiệu BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế gia đình... Phạm vi bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp ngày càng mở rộng; thủ tục tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH ngày càng thuận lợi.

- Trợ giúp xã hội được quan tâm góp phần bảo đảm đời sống cho một bộ phận người già, người tàn tật; người chịu ảnh hưởng bởi thiên tai... Trợ giúp xã hội từng bước được xã hội hóa, thu hút sự tham gia tự nguyện của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp.

- Cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản được quan tâm và ngày càng được cải thiện. Trong những năm qua, giáo dục, y tế, nước sạch, nhà ở, thông tin là các dịch vụ xã hội cơ bản được Nhà nước đẩy mạnh cung cấp, nâng cao chất lượng và được đưa vào thành các tiêu chí trong chuẩn nghèo đa chiều. Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kết cấu hạ tầng dịch vụ xã hội ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giúp nâng cao khả năng tiếp cận trường học, trạm y tế, nước sạch và thông tin. Đồng thời, Nhà nước có chính sách ưu đãi, hỗ trợ người nghèo, trẻ em trong tiếp cận giáo dục, y tế. Nhờ những nỗ lực này, Việt Nam là nước có chỉ số phát triển con người HDI cao, giảm nghèo nói chung và nghèo đa chiều nói riêng đạt kết quả ấn tượng, bảo hiểm y tế được bao phủ tới hơn 80% dân số.

Trợ giúp xã hội ngày càng được quan tâm thu hút sự tham gia tự nguyện của cộng đồng xã hội và doanh nghiệp, hỗ trợ người nghèo, trẻ em trong tiếp cận giáo dục, y tế_Ảnh: Tư liệu

Mặc dù mô hình an sinh xã hội của Việt Nam đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần khắc phục.

Một là, diện bao phủ của mô hình an sinh xã hội trên thực tế còn hẹp.

Điều này thể hiện ở tỷ lệ tham gia BHXH mới chỉ chiếm chưa tới 1/3 lực lượng lao động; tỷ lệ tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng khá thấp; trợ cấp xã hội mới chỉ bao phủ được một bộ phận đối tượng cần hỗ trợ. An sinh xã hội mới chủ yếu bao phủ được tới nhóm đối tượng nghèo, người tàn tật không nơi nương tựa, không có khả năng tự chăm sóc, và người già trên 80 tuổi; người lao động trong khu vực kinh tế chính thức có tham gia BHXH. Quy mô bao phủ BHXH thấp dù đã được cải thiện trong những năm gần đây. Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2011 có 10,2 triệu người tham gia BHXH, năm 2017 có 13,8 triệu người tham gia, năm 2019 có 14,5 triệu người tham gia. Tuy nhiên, tỷ lệ bao phủ BHXH mới chỉ ở mức khoảng 1/4 lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, mặc dù tỷ lệ bao phủ đã tăng từ 20,3 % năm 2011 lên 25,2% năm 2017. Điều đó có nghĩa là một bộ phận lớn lực lượng lao động chưa tham gia BHXH và không được hưởng lợi ích từ BHXH, hiện tại và tương lai sau khi đến tuổi nghỉ hưu.
Mặt khác, số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trên tổng lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Sau 10 năm triển khai chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, mới chỉ có khoảng 300 nghìn người tham gia. Trong khi đó, khu vực phi chính thức hiện nay có khoảng 40 triệu lao động. Điều này cho thấy người lao động chưa nhận thức được lợi ích của việc tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm xã hội tự nguyện chưa đủ sức hấp dẫn hoặc người lao động chưa đủ khả năng tài chính để đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện.

Hai là, mô hình an sinh xã hội hiện nay còn chưa bảo đảm tính bền vững.

- Quỹ BHXH có nguy cơ thiếu bền vững, mất cân đối trong dài hạn trong bối cảnh già hóa dân số. Nếu năm 2010, chi BHXH chỉ chiếm 73,9% thu BHXH thì đến năm 2015, tỷ lệ này đã là 99,5%. Với tốc độ tăng chi BHXH hiện nay, nếu không thiết kế lại mô hình, thì chi BHXH sẽ sớm vượt thu. Trong khi đó, tình trạng nhận BHXH một lần có xu hướng tăng trong người lao động, nhất là lao động trong doanh nghiệp, trong các khu công nghiệp, làm ảnh hưởng nguồn quỹ bảo hiểm, đồng thời làm tăng số lượng người không được hưởng bảo hiểm khi nghỉ hưu.

- Một trong những nguyên nhân khiến cho chi thường xuyên tăng nhanh trong những năm gần đây là do chi an sinh xã hội tăng nhanh. Nếu không có giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước và huy động nguồn lực xã hội thì sẽ hoặc không thể đáp ứng được nhu cầu an sinh xã hội, hoặc sẽ không bảo đảm được bền vững ngân sách nhà nước.

- Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao. Tỷ lệ giảm nghèo còn thấp đối với các hộ gia đình ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là với đồng bào dân tộc thiểu số. Mô hình an sinh xã hội cần phải thiết kế được hệ thống chính sách giảm nghèo hiệu quả đối với nhóm cư dân này.

Ba là, mức hỗ trợ an sinh xã hội còn thấp và một bộ phận dân cư chưa được bảo đảm mức sống tối thiểu.

Tỷ lệ giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn chậm, nguy cơ tái nghèo cao. Nguồn lực sinh kế của người nghèo còn hạn chế cả về tài chính, vật chất, điều kiện tự nhiên, đất đai và nguồn lực xã hội. Kết cấu hạ tầng ở vùng cao, vùng sâu, vùng dân tộc thiểu số còn thiếu và yếu mặc dù Nhà nước đã hết sức ưu tiên, quan tâm đầu tư, hỗ trợ phát triển sinh kế. Tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản còn hạn chế, ở nhiều nơi còn thiếu trường lớp, trạm y tế hoặc trường lớp, trạm y tế ở cách xa, đường sá đi lại khó khăn. Tỷ lệ hộ gia đình có nhà kiên cố, có nước sạch còn thấp. Chất lượng cung cấp dịch vụ xã hội ở nhiều nơi chưa cao.

Bốn là, giữa các trụ cột an sinh xã hội còn có sự chồng chéo.

Chồng chéo giữa hỗ trợ việc làm, giảm nghèo và trợ giúp xã hội. Có nhiều chương trình giảm nghèo khác nhau được thực hiện và một hộ gia đình, một địa bàn có thể được hưởng nhiều chương trình khác nhau. Đó là chưa kể những chương trình của địa phương, chương trình lồng ghép trong các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác, các chương trình, dự án giảm nghèo của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quốc tế, của cộng đồng dân cư... Điều này khiến cho nguồn lực bị phân tán, nhiều chương trình nhưng trùng lặp dẫn đến tình trạng chỗ thiếu vẫn thiếu, chỗ thừa vẫn thừa... Việc đánh giá hiệu quả của mỗi chương trình, dự án vì thế cũng khó khăn. Bên cạnh đó là sự chồng chéo giữa cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản trong các chương trình an sinh xã hội, trợ giúp xã hội, giảm nghèo với nội dung quản lý nhà nước của các lĩnh vực, như y tế, giáo dục, tài nguyên môi trường, thông tin - truyền thông...

Năm là, quản lý nhà nước trong bảo đảm an sinh xã hội vẫn còn hạn chế, làm giảm hiệu quả của mô hình an sinh xã hội.

Việc quản lý thực hiện các chương trình, dự án đôi chỗ còn lỏng lẻo dẫn đến có trường hợp hỗ trợ sai đối tượng thụ hưởng (ví dụ, hỗ trợ cho hộ không nghèo, hộ là cán bộ xã, thôn), chất lượng đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm chưa cao, có trường hợp tham ô, tham nhũng liên quan đến các chương trình an sinh xã hội... Việc quản lý, huy động và sử dụng Quỹ BHXH còn bất cập. Thủ tục hành chính liên quan đến BHXH tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn phức tạp, chưa tạo thuận lợi tối đa cho người tham gia. Việc trục lợi quỹ BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn. Quản lý, sử dụng, giải ngân các quỹ trợ giúp xã hội còn chưa thật hiệu quả, đặc biệt là trợ giúp đột xuất thiên tai, bão lụt còn chậm, còn gây nhiều bức xúc xã hội.

Sáu là, cơ chế huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội cho bảo đảm an sinh xã hội còn thiếu.

Mặc dù huy động nguồn lực xã hội cho bảo đảm an sinh luôn được quan tâm và nhấn mạnh trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, trên thực tế còn thiếu các cơ chế huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này. Cơ chế cũng chưa phát huy được vai trò của cộng đồng địa phương trong hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội.

Định hướng phát triển an sinh xã hội trong giai đoạn mới

Để tiếp tục phát triển an sinh xã hội, bảo đảm người dân được bảo vệ tốt hơn trước các rủi ro về thu nhập và tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, cần tiếp tục đổi mới an sinh xã hội theo các hướng sau:

Một là, làm rõ, thống nhất nhận thức và hoàn thiện mô hình an sinh xã hội đa tầng, đặc biệt là tầng an sinh xã hội cơ bản. An sinh xã hội chủ yếu được tư duy theo chiều dọc với các trụ cột an sinh mà chủ yếu là BHXH, bảo trợ xã hội và giảm nghèo. Mặt khác, mặc dù có thể dễ hình dung về 3 tầng an sinh xã hội, đặc biệt là tầng an sinh xã hội cơ bản, còn cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và xây dựng lộ trình thực hiện, phù hợp với khả năng tài chính.

Hai là, tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng bao trùm, cơ cấu lại nền kinh tế nhằm tăng trưởng nhanh, bao trùm và bền vững. Tăng trưởng là cơ sở để bảo đảm an sinh xã hội vì tăng trưởng giúp tạo việc làm và thu nhập cho hộ gia đình, giúp tăng nguồn đóng góp vào các quỹ an sinh xã hội, góp phần tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, từ đó có thể hỗ trợ cho hệ thống an sinh xã hội. Tuy nhiên, tăng trưởng không nhất thiết giải quyết an sinh xã hội nếu nó không phải là tăng trưởng bao trùm, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng đi kèm với tiến bộ xã hội và môi trường. Do đó, giải pháp căn cơ nhất để giải quyết vấn đề an sinh xã hội chính là bảo đảm tăng trưởng nhanh, bền vững, bao trùm, trong đó mọi người dân đều tham gia đóng góp và đều được hưởng các thành quả của tăng trưởng.

Ba là, bên cạnh thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững, cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các chương trình tạo việc làm và giảm nghèo. Thiếu, mất thu nhập với người trong tuổi lao động thường gắn với thiếu, mất việc làm. Chính vì vậy, cần tiếp tục các chương trình tạo việc làm gắn với phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Giảm nghèo những năm tới sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, do những hộ nghèo nằm tập trung ở các vùng núi, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số với nguồn lực và tiếp cận sinh kế rất hạn chế. Mô hình an sinh phải đưa các hộ nghèo này vào các chuỗi giá trị, để họ có nguồn thu nhập ổn định, bền vững mà không cần dựa vào trợ cấp trực tiếp bằng tiền hay hiện vật.

Bốn là, củng cố và phát triển hệ thống BHXH, tăng độ bao phủ BHXH, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp với tư cách là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Hiện nay, trừ bảo hiểm y tế, độ bao phủ BHXH và bảo hiểm thất nghiệp còn thấp và chủ yếu mới ở khu vực kinh tế chính thức. Khu vực kinh tế phi chính thức với số lượng lao động đông đảo ở nước ta phần lớn vẫn chưa tham gia BHXH. Điều này, một mặt, vừa khiến cho BHXH chưa phát huy được tính ưu việt trong bảo đảm an sinh xã hội, vừa tạo ra một gánh nặng xã hội lớn khi những người này qua tuổi lao động; mặt khác, khiến cho quỹ BHXH có nguy cơ thiếu bền vững. Do đó, cần phải tăng tỷ lệ bao phủ BHXH, tiến tới mục tiêu BHXH toàn dân.

Năm là, điều chỉnh hợp lý việc huy động và sử dụng hợp lý, hiệu quả quỹ BHXH nhằm bảo đảm đáp ứng các nhu cầu thụ hưởng của người tham gia, đồng thời bảo đảm tính an toàn và bền vững của quỹ BHXH trong bối cảnh dân số đang già hóa.

Sáu là, chuẩn bị ứng phó với xu thế già hóa dân số. Già hóa dân số là một xu thế phổ biến trên thế giới và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ nhanh, vì thế sẽ tạo ra nhu cầu an sinh rất lớn cho nhóm người cao tuổi trên các trụ cột an sinh chính, bao gồm hệ thống hưu; hệ thống chăm sóc sức khỏe người già, nhà dưỡng lão; bảo trợ xã hội với người già neo đơn,... Nếu không có sự chuẩn bị chu đáo thì hệ thống an sinh xã hội sẽ không thể đáp ứng được những thay đổi này.

Bảy là, tăng cường xã hội hóa an sinh xã hội. An sinh xã hội đòi hỏi nguồn tài chính rất lớn. Bên cạnh nguồn đóng góp của những người tham gia đóng BHXH, trong nhiều trường hợp, an sinh xã hội phải dựa vào ngân sách nhà nước, như bảo trợ xã hội, hỗ trợ người nghèo, người tàn tật...
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn chế, cần thiết phải huy động các nguồn tài chính từ xã hội phục vụ cho an sinh xã hội. Xã hội hóa không chỉ giúp giải bài toán tài chính trong an sinh xã hội mà còn góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ an sinh xã hội. Xã hội hóa trong an sinh xã hội cần tập trung vào các trụ cột: 1- Việc làm và giảm nghèo; 2- Bảo trợ xã hội; 3- Cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản.

Tám là, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến an sinh xã hội. Hiện nay, cơ sở pháp lý cho hệ thống an sinh xã hội đã được hình thành tương đối đầy đủ, như Hiến pháp, Bộ Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội... Trong thời gian tới cần tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện cơ sở pháp lý, đặc biệt xử lý các vấn đề nảy sinh, sao cho hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp, vừa thu hút và bảo đảm quyền lợi cho những người tham gia. Đặc biệt, cần xây dựng cơ sở pháp lý cho mô hình an sinh xã hội đa tầng, đặc biệt là các quy định liên quan đến tầng an sinh xã hội cơ bản, chẳng hạn quy định về lương hưu cơ bản.

Chín là, gắn kết hệ thống các chính sách, chương trình an sinh xã hội thành một thể thống nhất, minh bạch, tránh chồng chéo, phân tán, kém hiệu quả. Hiện nay, có nhiều chương trình, hoạt động an sinh xã hội của các cấp từ Trung ương đến địa phương, do nhiều cơ quan, đơn vị tổ chức, bao gồm cả các tổ chức nước ngoài, tổ chức phi chính phủ, dẫn tới chồng chéo, trùng lặp, kém hiệu quả. Cần thiết kế lại tổng thể chương trình sao cho đơn giản, minh bạch, dễ thực hiện và dễ quản lý, trong đó chú trọng các chương trình về việc làm, giảm nghèo, bảo trợ xã hội và cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản./.

-------------

 (1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 238