Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Bùi Hoài Sơn PGS, TS, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam
21:54, ngày 08-03-2018

TCCS - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng ta đã nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống xã hội, thực hiện sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội hóa các hoạt động văn hóa và sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa trong bối cảnh cấu trúc lại nền kinh tế được xem là một trong những căn cứ để xây dựng, hoàn thiện thể chế văn hóa nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ mới.


Các yếu tố tác động đến sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam

Môi trường chính trị

Đường lối, chủ trương phát triển văn hóa của Đảng đã đổi mới nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước, khẳng định sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế nhằm phát triển kinh tế tri thức và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này giúp các nhà quản lý và các nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật theo mô hình “bao cấp” trước đây vượt qua những định kiến hẹp hòi, khép kín cho rằng văn hóa không phải là sản phẩm hàng hóa, văn hóa không tham gia thị trường, văn hóa không có chức năng kinh tế..., giải phóng năng lực sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau tham gia đầu tư vào lĩnh vực này.

Những vấn đề đặt ra về phương diện nhận thức lý luận

Hiện nay, nhận thức về phát triển công nghiệp văn hóa còn có các độ chênh khác nhau về chủ thể định hướng và đầu tư phát triển công nghiệp văn hóa. Có nước xếp lĩnh vực này vào thành một bộ phận của kinh tế tri thức, kinh tế sáng tạo. Ở nước ta hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý đa phần các lĩnh vực liên quan đến các ngành công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, cần có sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc quản lý và định hướng phát triển công nghiệp văn hóa. Cần phải nhận diện rõ vai trò và vị trí của các ngành công nghiệp văn hóa trong sự phát triển của đất nước, chủ thể của công nghiệp văn hóa, sự phân định giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế khác trong việc phát triển công nghiệp văn hóa.

Môi trường kinh tế

Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn về phát triển kinh tế và văn hóa, trong thời gian vừa qua, nhất là sau khi có chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa, các thành phần kinh tế khác nhau đã tham gia khá mạnh mẽ vào phát triển các lĩnh vực khác nhau trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa, như điện ảnh, âm nhạc, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, điển hình như các công ty nghe nhìn, các trung tâm vui chơi giải trí, các ngành sản xuất thủ công, mỹ nghệ, các làng nghề... Trên thị trường văn hóa phẩm xuất hiện hàng loạt các sản phẩm văn hóa đáp ứng yêu cầu văn hóa, thẩm mỹ, nghệ thuật của công chúng. Các kênh truyền thông, truyền tải các giá trị văn hóa, nghệ thuật đến với công chúng cũng đa dạng và sinh động, đặc biệt là thông qua truyền hình, mạng in-tơ-nét. Với thành tố then chốt là vốn văn hóa vững chắc và tinh thần doanh nghiệp, các ngành công nghiệp văn hóa chính là công cụ hữu hiệu cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế, biến văn hóa trở thành một thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp xây dựng được nền kinh tế sáng tạo mạnh mẽ, bao gồm các lĩnh vực có giá trị kinh tế cao.

Môi trường văn hóa - xã hội

Môi trường văn hóa - xã hội Việt Nam bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận và tôn trọng bởi xã hội và nền văn hóa Việt Nam. Công cuộc đổi mới diễn ra hơn 30 năm qua đã tạo ra những thay đổi nhiều mặt tới môi trường văn hóa - xã hội Việt Nam. Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, việc kiên định triển khai đường lối, chính sách, giải pháp phát triển văn hóa đã từng bước hình thành môi trường văn hóa có khả năng cởi trói sức sản xuất văn hóa, giải phóng năng lực sáng tạo, từng bước tạo ra những khuôn khổ thể chế có khả năng tạo điều kiện cho các ngành, nghề công nghiệp văn hóa phát triển, từng bước nâng cao chất lượng văn hóa, thỏa mãn các đòi hỏi ngày càng đa dạng về nhận thức, hưởng thụ văn hóa của người dân, đồng thời thúc đẩy văn hóa hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Bên cạnh đó, môi trường văn hóa xã hội nước ta còn tồn tại nhiều nhân tố không thuận lợi cho việc phát triển các ngành, nghề công nghiệp văn hóa. Thói quen chỉ coi văn hóa là hình thái ý thức và phủ nhận hình thái thương phẩm của nó, hoặc quan niệm quá chú trọng đặc tính thương phẩm của văn hóa mà phủ nhận tính hình thái ý thức của văn hóa là khá phổ biến. Việc xử lý chính xác mối quan hệ này chưa được thể hiện rõ ràng dẫn đến tình trạng diễn đạt mơ hồ, khó hiểu về khái niệm công nghiệp văn hóa, các ngành, nghề công nghiệp văn hóa. Các kết quả nghiên cứu về tác động của môi trường văn hóa - xã hội cũng cho thấy, công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, chính trị đã tạo nên sự thay đổi đa dạng về văn hóa - xã hội, tạo điều kiện cho các ngành nghề công nghiệp văn hóa phát triển, nhưng vai trò và chức năng nhà nước lại chưa có những biến đổi tương ứng (về tính chất, nội dung, phương hướng và biện pháp thực thi). Cụ thể, luật hóa các quy phạm pháp luật liên quan tới các ngành, nghề công nghiệp văn hóa vào đời sống còn chậm, phương thức chỉ đạo, quản lý trong lĩnh vực phát triển văn hóa còn chồng chéo, cơ chế vận hành của các tổ chức văn hóa chưa hiệu quả dẫn đến tình trạng các ngành, nghề công nghiệp văn hóa dù đã được hình thành song vẫn là một lĩnh vực mới mẻ trong nhận thức của người dân, việc quản lý chưa bắt kịp với phát triển kinh tế, chưa tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh kích thích sức sản xuất, sức sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam.

Mặt khác, tình trạng thất nghiệp, trình độ chuyên môn và khả năng ứng dụng thực tế của đội ngũ lao động, phong cách, lối sống, phong tục, tập quán, tâm lý xã hội... đều tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả của mỗi ngành công nghiệp văn hóa cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực.

Môi trường khoa học kỹ thuật và công nghệ

Tác động mạnh mẽ của khoa học - công nghệ hiện đại đã làm tiền đề cho sự xuất hiện nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Bên cạnh sự tác động của nền kinh tế tri thức, công nghiệp văn hóa ở Việt Nam cũng đang đứng trước sự tác động của xã hội thông tin toàn cầu, trong đó có điện ảnh, âm nhạc, thời trang, biểu diễn nghệ thuật, du lịch, qua các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội. Hàng loạt các thông tin về lĩnh vực công nghiệp văn hóa, như giải trí, lễ hội, điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, du lịch văn hóa đang hướng tới đáp ứng nhu cầu đa dạng, sinh động của công chúng khắp nơi trên thế giới. Xã hội thông tin đưa lại những cơ hội thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp văn hóa, kích thích sức sáng tạo năng động của công nghiệp văn hóa của Việt Nam hội nhập với thế giới. Tuy nhiên, trào lưu “xã hội thông tin” phát triển “văn hóa đại chúng” cũng làm rối loạn thị trường tiêu dùng công nghiệp văn hóa trong nước, làm cho ngành công nghiệp văn hóa trong nước lúng túng trong việc lựa chọn mục tiêu và định hướng phát triển.

Mặt khác môi trường công nghệ là một trong những yếu tố năng động chứa đựng nhiều mối đe dọa đối với công nghiệp quảng cáo và phát thanh truyền hình, có thể là: 1 - Sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm, dịch vụ truyền thống; 2 - sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện hữu bị lỗi thời và tạo ra áp lực phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh; 3 - sự ra đời của công nghệ mới càng tạo điều kiện thuận lợi cho đối thủ xâm nhập mới và làm tăng thêm áp lực cạnh tranh; 4 - sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vòng đời công nghệ có xu hướng rút ngắn lại, dẫn đến gia tăng áp lực phải rút ngắn thời gian khấu hao so với trước.

Bên cạnh đó những cơ hội có thể đến từ môi trường công nghệ đối với công nghiệp quảng cáo và phát thanh truyền hình, có thể là: 1 - công nghệ mới có thể tạo điều kiện để sản xuất sản phẩm, dịch vụ rẻ hơn với chất lượng cao hơn, làm cho sản phẩm có khả năng cạnh tranh tốt hơn; 2 - sự ra đời của công nghệ mới có thể làm cho sản phẩm, dịch vụ mới có nhiều tính năng hơn và qua đó có thể tạo ra những thị trường mới hơn cho các sản phẩm và dịch vụ.

Thực trạng các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam

Về nguồn lực

Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, trong đó lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng hơn 50 triệu người; hằng năm trung bình có khoảng 1,5 - 1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Lao động Việt Nam được đánh giá là có nền tảng văn hóa, giáo dục, thông minh, khéo léo, cần cù, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ, tuy nhiên, ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,... còn nhiều hạn chế.

Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành, nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, lao động lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, trong đó có lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp, nhất là cạnh tranh trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực Việt Nam còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hóa thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam. Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hóa công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.

Các đơn vị mang tính trung gian hỗ trợ chuyên môn cho các doanh nghiệp văn hóa còn rất ít. Ngoài ra, mối quan hệ giữa các cơ quan và doanh nghiệp chưa có sự gắn kết chặt chẽ, điều này dẫn đến sinh viên tốt nghiệp ở những chuyên ngành tương ứng lại không đủ kỹ năng phù hợp với yêu cầu của ngành công nghiệp.

Hằng năm, mức chi cho hoạt động văn hóa chiếm 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước, so với yêu cầu còn ở mức thấp. Năm 2015, vốn đầu tư phát triển cho lĩnh vực văn hóa đạt 26,7 triệu USD và cho Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa là 12,7 triệu USD. Nhà nước đã hỗ trợ tài chính cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật bằng cách đầu tư từ nguồn ngân sách, cho xây dựng những thiết chế văn hóa gián tiếp hỗ trợ cho các hoạt động nghệ thuật thông qua chính sách về thuế. Luật thuế quy định rằng, những tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hay những cá nhân đóng góp tài chính cho các hoạt động văn hóa đều được khấu trừ thuế, được hưởng miễn thuế tài sản và miễn thuế thu nhập khi đóng góp cho Nhà nước. Hiệp hội các cơ quan nghệ thuật địa phương xác định mức thuế đối với các tổ chức có hỗ trợ vốn cho việc bảo tồn văn hóa địa phương. Việc đầu tư tài chính từ hình thức hỗ trợ gián tiếp này đã huy động được nguồn kinh phí đáng kể cho sự nghiệp phát triển văn hóa nghệ thuật. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc hình thành các loại quỹ văn hóa với các thể chế phi nhà nước và nửa nhà nước. Loại quỹ văn hóa phi nhà nước thuần túy huy động sự đóng góp của các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước... để đầu tư cho các hoạt động văn hóa theo cách nhìn hay theo nhu cầu của xã hội. Còn loại quỹ có sự đầu tư một phần của Nhà nước sẽ có sự tham gia của Nhà nước trong xây dựng các mục tiêu và quy định cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Nhà nước cho vay vốn trung và dài hạn với các hình thức không lấy lãi hay với lãi suất thấp đối với các đầu tư cho các hoạt động văn hóa. Hỗ trợ tài chính đối với các loại hình nghệ thuật truyền thống, khuyến khích các loại hình văn hóa nghệ thuật tìm kiếm các nguồn tài trợ khác. Mở rộng phạm vi đào tạo văn hóa nghệ thuật cho mọi đối tượng xã hội trên cơ sở đóng góp kinh phí đào tạo ngoài chỉ tiêu của Nhà nước, khuyến khích phát triển các cơ sở đào tạo ngoài Nhà nước. Nhà nước cho phép tư nhân tham gia các hoạt động xuất bản, thư viện, thành lập các hãng phim tư nhân, chiếu phim, tổ chức các hoạt động biểu diễn, hợp tác với hàng chục cơ sở in ấn của tư nhân.

Hệ thống các thiết chế văn hóa cả nước, như các rạp chiếu phim, rạp hát, bảo tàng, trung tâm văn hóa, cửa hàng (bán tranh ảnh), các phương tiện thông tin đại chúng... đang hình thành, tuy nhiên chất lượng và hiệu quả của hệ thống này còn hạn chế. Theo các số liệu cụ thể, cả nước có 70 trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, nhà thông tin triển lãm cấp tỉnh; 546/698 quận, huyện có trung tâm văn hóa, hoặc trung tâm văn hóa - thể thao cấp huyện, đạt tỷ lệ 78%; 4.823/11.100 xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, đạt tỷ lệ 43,4%; 45.259/101.231 thôn, làng, ấp, bản, khu phố có nhà văn hóa đạt tỷ lệ 44,7%. Hệ thống bảo tàng Việt Nam tiếp tục được mở rộng với 149 bảo tàng (gồm 124 bảo tàng công lập, 25 bảo tàng ngoài công lập), lưu giữ gần 3 triệu tài liệu, hiện vật. Năm 2015, có 2 bảo tàng ngoài công lập được cấp phép hoạt động (Bảo tàng Tiền tệ và Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội); 02 bảo tàng được xếp hạng II (Bảo tàng Tuyên Quang và Bảo tàng Lâm Đồng); 300 cửa hàng bán sản phẩm mỹ thuật. Cả nước hiện có 66 đài phát thanh, truyền hình, bao gồm 02 đài trực thuộc Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam); 64 đài phát thanh, truyền hình địa phương (gồm 62 Đài Phát thanh - Truyền hình của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương). Riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 2 đài: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lĩnh vực xuất bản có 63 nhà xuất bản thuộc sở hữu của Nhà nước, được tổ chức hoạt động với nhiều loại hình khác nhau. Tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm, về số bản sách khoảng 15% - 20%, về số đầu sách: 8% - 10%, về trang in: 10% - 15%. Mạng lưới các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa còn nhỏ, chủ yếu là hoạt động dịch vụ, khâu sản xuất chất lượng thấp. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài (trừ các rạp chiếu phim) còn ít. Việc ứng dụng khoa học - công nghệ trong sáng tạo, sản xuất sản phẩm văn hóa còn hạn hẹp. Liên kết giữa các trường đại học, doanh nghiệp, tổ chức và các cơ quan nhà nước trong trao đổi, sử dụng thế mạnh và hỗ trợ lẫn nhau trong việc tổ chức hay kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo và đặc biệt là cùng nhau nuôi dưỡng các tài năng sáng tạo còn rất hạn chế. Việc xây dựng thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế còn chưa được chú trọng. Ngoài ra, đối với các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam, yếu kém về hệ thống dữ liệu và thiếu chiến lược quốc gia cho ngành công nghiệp văn hóa đang là vấn đề nổi lên cần khắc phục.

Về thị trường và vấn đề bản quyền

Thị trường nội địa lớn với hơn 90 triệu dân là một trong những thuận lợi mà ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam có được, thị trường này bảo đảm tiềm năng to lớn cho các sản phẩm của các tiểu ngành trong ngành công nghiệp văn hóa có thể được tiêu thụ. Bên cạnh đó, thị trường khu vực châu Á đang mở rộng cũng là một cơ hội lớn mở ra cho các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, các ngành sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa ở nước ta hiện nay mới chủ yếu là các cơ sở sản xuất, kinh doanh với quy mô nhỏ, chưa xuất hiện các tập đoàn lớn, các tổ hợp đa chức năng. Các chủ thể tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa còn chưa nhanh nhạy cả trong nhận thức cũng như trong thực tiễn. Khối các doanh nghiệp nhà nước còn trì trệ, trông chờ vào sự bao bọc, che chở từ Nhà nước, thiếu năng động. Khối các doanh nghiệp ngoài nhà nước thiếu cơ chế, nguồn lực để phát triển. Về cơ bản, hiện quá trình sản xuất - phân phối và phổ biến các sản phẩm văn hóa vẫn chủ yếu do các đơn vị nhà nước đảm nhiệm, các đơn vị tư nhân chủ yếu tham gia nhiều ở khâu lưu thông trên thị trường, song tất cả vẫn đang manh mún, tự phát, chưa chuyên nghiệp. Nếu so với nền công nghiệp văn hóa các nước phát triển, thì các hoạt động đang diễn ra trong lĩnh vực này ở nước ta còn một khoảng cách khá xa. Nhìn vào bức tranh tổng thể, thị trường âm nhạc, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thời trang, các trò chơi trực tuyến... đang rất manh mún, tự phát, không chuyên nghiệp và có những lĩnh vực thiếu vắng vai trò quản lý của Nhà nước. Còn thiếu sự hợp tác giữa khu vực công và các doanh nghiệp văn hóa. Khu vực công có thể là một thị trường lớn cho ngành công nghiệp văn hóa, tuy nhiên, Nhà nước hiếm khi thu mua từ nguồn bên ngoài khu vực này. Trên thị trường các sản phẩm công nghiệp văn hóa đang tồn tại tình trạng vi phạm bản quyền với phạm vi rộng ở hầu hết các lĩnh vực thuộc các ngành công nghiệp văn hóa, như âm nhạc, điện ảnh, trò chơi trực tuyến, thời trang, thiết kế,... Vi phạm bản quyền khiến người sáng tạo, các nhà sản xuất sản phẩm và dịch vụ ít cơ hội thu được lợi nhuận từ việc sản xuất và phân phối sản phẩm, phá hỏng các mô hình kinh doanh và gây khó khăn cho sự phát triển các doanh nghiệp ở nhiều ngành (ví dụ như âm nhạc, thiết kế, thời trang,...). Sự thiếu hiểu biết nghiêm trọng về các quy định pháp lý của các doanh nghiệp khiến họ thiếu tự tin trong việc phát triển các mô hình doanh nghiệp. Việc vi phạm bản quyền được coi là nguy cơ nhìn thấy được về sự thất bại của thị trường công nghiệp văn hóa ở nước ta nếu chúng ta không đưa ra những giải pháp khắc phục kịp thời. Một chiến dịch nâng cao nhận thức và đào tạo về tác quyền trong ngành công nghiệp văn hóa sẽ là hết sức cần thiết trong thời gian tới nhằm cải thiện thị trường cho các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo ở nước ta.

Có thể thấy, Việt Nam có một nền văn hóa đa dạng, phong phú và độc đáo được biểu hiện qua văn hóa truyền thống (di sản, di tích, lễ hội, ngành thủ công mỹ nghệ truyền thống, nghệ thuật truyền thống...) và những giá trị văn hóa đương đại (bảo tàng, trung tâm trình diễn nghệ thuật đương đại, các loại hình nghệ thuật mới...) là tiềm năng to lớn tạo điều kiện thuận lợi phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Việt Nam có dân số trẻ, trình độ dân trí ngày càng cao, sức sáng tạo dồi dào, trình độ công nghệ, kĩ thuật tốt, năng động trong tiếp cận với thị trường văn hóa. Thị trường nội địa lớn bảo đảm tiềm năng tiêu thụ sản phẩm của các tiểu ngành trong ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh đó, thị trường khu vực châu Á đang phát triển nhanh chóng cũng là một cơ hội lớn mở ra cho các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng tạo ra các cơ hội thuận lợi để tiếp cận, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào quá trình sáng tạo, sản xuất các sản phẩm công nghiệp văn hóa, mở rộng khả năng hợp tác thương mại văn hóa ra thế giới. Năm 2014, có trên 500 doanh nghiệp tham gia kinh doanh trong lĩnh vực phần mềm và trò chơi giải trí, với tổng doanh thu đạt trên 1,407 tỷ USD, thu hút trên 60.000 lao động, đạt tỷ lệ doanh thu ở mức hơn 19.000 USD/lao động/năm. Một số doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị trường nội địa và bước đầu đầu tư, cung cấp dịch vụ ra thị trường nước ngoài; ngành phát thanh và truyền hình, hệ thống truyền hình trả tiền với 73 kênh truyền hình và 9 kênh phát thanh trên hệ thống truyền hình trả tiền. Số lượng kênh truyền hình nước ngoài được khai thác trên hệ thống truyền hình trả tiền là 40 kênh (Báo cáo tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông), truyền hình trả tiền sử dụng 4 loại công nghệ truyền dẫn, phát sóng là cáp, số vệ tinh, số mặt đất và IPTV. Số lượng thuê bao truyền hình trả tiền tăng trưởng trung bình 8%/ năm trong một số năm gần đây và đạt số lượng hơn 7 triệu thuê bao vào năm 2014; tính riêng tổng số doanh thu của các đơn vị thuộc Đài Truyền hình Việt Nam và doanh thu của Đài Tiếng nói Việt Nam năm 2014 đạt 464 triệu USD. Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu của ngành thủ công mỹ nghệ nước ta ước tính đạt 2,171 tỷ USD. Thủ công, mỹ nghệ là ngành nằm trong số 11 ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nước ta, góp phần tạo lợi nhuận kinh tế và cơ hội việc làm lớn, giảm chênh lệch kinh tế giữa nông thôn và thành thị, góp phần lớn vào công cuộc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa quý báu của nước ta; ngành điện ảnh doanh thu từ chiếu phim Việt Nam và phim nhập khẩu năm 2015 tăng gần 21% so với năm 2014 (102,1 triệu USD/84,3 triệu USD); ngành nghệ thuật biểu diễn doanh thu năm 2015 ước đạt 5,2 triệu USD, tăng trưởng doanh thu ước đạt khoảng 5% mỗi năm; ngành quảng cáo doanh thu quảng cáo trên các phương tiện truyền thông năm 2015 ước đạt trên 1 tỷ USD (chưa thống kê doanh thu quảng cáo trên các ấn phẩm), tốc độ phát triển của ngành trong những năm qua khá cao, khoảng 20%-30%; ngành du lịch văn hóa, trong năm 2015 có tổng thu từ du lịch đạt 15 tỷ USD (tăng 6,2% so với năm 2014), trong đó du lịch văn hóa ước tính chiếm 10% (1,5 tỷ USD) trong tổng thu từ du lịch; ngành xuất bản năm 2014 với tổng doanh thu đạt 90 triệu USD (tăng 2,1% so với năm 2013); ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới chỉ là gia công cho nước ngoài, năm 2015 kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt khoảng 27,5 tỷ USD, thiết kế thời trang ước tính 20 triệu USD; tổng doanh thu hằng năm của ngành mỹ thuật là 60 triệu USD...

Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy chúng ta còn chưa nhận thức đầy đủ về vị trí và tầm quan trọng của các ngành công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội khiến việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Hệ thống sản phẩm nghèo nàn, mẫu mã không thay đổi, dịch vụ chất lượng thấp chưa xứng với tiềm năng sẵn có, không thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng. Thị trường văn hóa phát triển còn manh mún, tự phát, không chuyên nghiệp, có những lĩnh vực thiếu vắng vai trò quản lý của Nhà nước. Các mô hình thử nghiệm về không gian sáng tạo, kinh doanh khởi nghiệp chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Điều này tác động tiêu cực tới chất lượng và tính cạnh tranh trên thị trường. Trên thị trường các sản phẩm công nghiệp văn hóa đang tồn tại tình trạng vi phạm bản quyền ở phạm vi rộng. Giáo dục sáng tạo chưa cập nhật và theo kịp sự phát triển chung của thế giới đã ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong các tổ chức văn hóa - nghệ thuật. Các tổ chức văn hóa của Nhà nước còn phụ thuộc vào ngân sách bao cấp, thiếu sự năng động, chưa đa dạng hóa tối đa các mô hình kinh doanh. Chưa có một chiến lược tổng thể phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, từ đó dẫn đến việc thiếu cơ chế phối hợp giữa các ngành, các lĩnh vực và các địa phương trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, địa phương và toàn xã hội về vai trò, vị trí của công nghiệp văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội.

Đổi mới tư duy, coi công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế tổng hợp, có khả năng tạo ra các sản phẩm tinh thần, đồng thời đóng góp vào GDP và tạo việc làm cho xã hội. Cần nhận thức và khai thác mọi tiềm năng, lợi thế về tài nguyên văn hóa đa dạng, con người Việt Nam cần cù, sáng tạo, giàu bản sắc được hình thành qua nhiều thế kỷ để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có sức cạnh tranh, như phầm mềm và trò chơi giải trí, du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ... Nâng cao nhận thức về việc phát huy song song giữa giá trị truyền thống và giá trị đương đại trong công nghiệp văn hóa, kết hợp truyền thống và đương đại một cách hài hòa. Nâng cao nhận thức trong việc phát triển nguồn nhân lực, triển khai các chiến lược theo thành phố, hoặc khu vực, vùng. Đặc biệt, cần xác định một số ngành công nghiệp văn hóa mũi nhọn của Việt Nam có đủ khả năng trụ vững trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp trong việc đầu tư cho văn hóa như là một phần chiến lược marketing và thể hiện trách nhiệm với xã hội, cộng đồng.

Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về phát triển công nghiệp văn hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Rà soát, bổ sung, điều chỉnh, xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, nhất là các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, khuyến khích sáng tạo đối với văn nghệ sĩ, các doanh nghiệp khởi nghiệp, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm, dịch vụ văn hóa có chất lượng. Đẩy mạnh xã hội hóa nhằm thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển công nghiệp văn hóa. Nghiên cứu xác định các ngành, lĩnh vực công nghiệp văn hóa ưu tiên đầu tư để xây dựng chính sách ưu đãi và thu hút đầu tư phù hợp. Hình thành các tổ chức, hiệp hội, mạng lưới liên kết các cá nhân, doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa để tạo ra môi trường vận động chính sách và thu hút đầu tư.

Thứ ba, tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và học tập kinh nghiệm các nước về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Tham gia tích cực và chủ động vào các sự kiện văn hóa nghệ thuật có uy tín trong khu vực và trên thế giới nhằm tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, tổ chức văn hóa nghệ thuật của Việt Nam có cơ hội giao lưu và quảng bá thương hiệu với các nghệ sĩ và tổ chức văn hóa nghệ thuật nước ngoài. Tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật quốc tế tại Việt Nam và phấn đấu để các sự kiện này trở thành các hoạt động thường niên, có uy tín ở khu vực và trên thế giới nhằm thu hút sự quan tâm của các nghệ sĩ, tổ chức văn hóa nghệ thuật có tên tuổi tham gia.

Thứ tư, xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa gắn với phát triển mạnh thị trường tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ văn hóa trong và ngoài nước.

Nâng cao năng lực sản xuất và sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa có chất lượng cao tham gia thị trường văn hóa trong nước và quốc tế. Các sản phẩm đó phải đa dạng, phong phú, đáp ứng đầy đủ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó chủ động tìm hiểu, nắm bắt thị hiếu, xác định và định hướng sự phát triển các nhu cầu thị hiếu văn hoá nghệ thuật của các đối tác - khách hàng. Các sản phẩm văn hóa xuất khẩu phải đạt trình độ nghệ thuật cao, độc đáo và mang đậm bản sắc dân tộc.

Xây dựng và hoàn thiện cơ chế xuất - nhập khẩu văn hoá phẩm phù hợp một cách tương xứng với sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước, vừa hỗ trợ đắc lực cho việc hội nhập kinh tế quốc tế đúng tiến trình và phát triển hợp quy luật tất yếu khách quan, vừa bảo đảm sự bền vững cho an ninh văn hóa - chính trị của đất nước. Mở rộng các sản phẩm công nghiệp văn hóa được sản xuất tại Việt Nam và gia tăng mức độ và số lượng của các tác phẩm được bán và xuất khẩu từ Việt Nam ra nước ngoài. Triển khai chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thương hiệu doanh nghiệp văn hóa Việt Nam, các tài năng tiêu biểu về văn hóa của đất nước tại các hội chợ quốc tế, liên hoan quốc tế; lồng ghép chương trình quảng bá phát triển công nghiệp văn hóa gắn với các sự kiện ngoại giao. Tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật của những người tham gia hoạt động xuất - nhập khẩu văn hóa phẩm. Phát hiện kịp thời và xử lý thích đáng những trường hợp buôn bán, lưu hành, tàng trữ những văn hóa phẩm nhập lậu, bảo đảm sự trong sạch cho thị trường văn hóa phẩm ngoại nhập.

Thứ năm, quy hoạch mạng lưới các doanh nghiệp công nghiệp văn hóa, trong đó hình thành một số tập đoàn doanh nghiệp mạnh, có thương hiệu và sức cạnh tranh cao trong nước và quốc tế.

Thí điểm thành lập một số tập đoàn lớn về công nghiệp văn hóa ở lĩnh vực truyền thông, điện ảnh, phát thanh và truyền hình, phần mềm và các trò chơi trực tuyến. Xây dựng mô hình doanh nghiệp xã hội cho các tổ chức văn hóa nghệ thuật tư nhân để các tổ chức này có sử dụng nguồn thu từ kinh doanh cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật, đồng thời cho phép các tổ chức văn hóa nghệ thuật tư nhân đăng ký hoạt động với nhiều chức năng khác nhau, có thể vận hành như tổ chức từ thiện, tổ chức phi lợi nhuận; đồng thời cũng có thể vận hành như tổ chức kinh doanh.

Thứ sáu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê và cơ sở dữ liệu các ngành công nghiệp văn hóa.

Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê ở tất cả các ngành công nghiệp văn hóa trong hệ thống dữ liệu thống kê quốc gia, ứng dụng cho các địa phương. Thực hiện báo cáo thống kê hằng năm cho từng ngành công nghiệp văn hóa, tạo điều kiện về cơ sở dữ liệu để có chính sách phù hợp cho sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp văn hóa và riêng cho từng ngành. Hợp tác với các tổ chức quốc tế, như Tổ chức Bản quyền quốc tế (WIPO), Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)... để xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê cho phù hợp với thông lệ thống kê quốc tế.

Thứ bảy, nâng cao năng lực thực thi quyền sở hữu trí tuệ.

Nâng cao năng lực thực thi quyền tác giả và quyền liên quan. Củng cố mô hình tổ chức của Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam, Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả văn học Việt Nam, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam và các tổ chức dịch vụ quyền tác giả. Tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của sáng tạo, thực thi bản quyền, về cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đẩy mạnh công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ liên quan, nghiên cứu triển khai việc đánh giá giá trị quyền sở hữu trí tuệ, cung cấp kịp thời dịch vụ tư vấn về bản quyền, hệ thống luật pháp ở hải ngoại, hỗ trợ doanh nghiệp triển khai các công tác liên quan đến quyền bản quyền.

Thứ tám, đào tạo, tuyển chọn, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực trong các ngành công nghiệp văn hóa.

Tổ chức các chương trình kết nối các bên liên quan trong ngành để thúc đẩy trao đổi kiến thức và nâng cao năng lực chuyên môn, qua đó xây dựng được một cộng đồng chuyên nghiệp cho các ngành công nghiệp văn hóa... Đẩy mạnh liên doanh, liên kết, hợp tác quốc tế về đào tạo, thông qua các chương trình, hội thảo, hội nghị, hội thi, liên hoan... Ứng dụng khoa học - công nghệ số trong đào tạo, nhận thức được sức mạnh của sự hội nhập truyền thông. Nâng cao năng lực và cải thiện kỹ năng quản lý và kỹ năng kinh doanh của các nhà quản lý văn hóa thông qua các chương trình phát triển chuyên môn cùng với các chứng chỉ đào tạo... Đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, thực thi về quyền tác giả, quyền liên quan, nâng cao năng lực của các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan; tập huấn chuyên môn về bảo vệ bản quyền và thu phí bản quyền hiệu quả. Thực hiện chế độ đãi ngộ đặc biệt để thu hút nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm chuyên môn từ các nước có trình độ phát triển cao về ngành công nghiệp văn hóa đến Việt Nam làm việc.

Thứ chín, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, các lĩnh vực trong việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình, đề án, dự án phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Đặt và lồng ghép phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, từng bộ, ngành, vùng, miền và mỗi địa phương. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành công nghiệp văn hóa với những lộ trình, mục tiêu ưu tiên và giải pháp phù hợp.

Tóm lại, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa sẽ góp phần cơ cấu lại mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm - dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao, tạo thêm việc làm ổn định, đóng góp tích cực cho nền kinh tế. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa - dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường nội địa và quốc tế chính là “sức mạnh mềm” văn hóa quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người dân, cũng như mang văn hóa Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực, quảng bá đất nước. Trong thời đại của kinh tế tri thức và công nghệ thông tin, công nghiệp văn hóa có khả năng biến văn hóa trở thành bộ phận quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp Việt Nam xây dựng được một nền kinh tế sáng tạo, thịnh vượng, tự tin và độc đáo. Chính vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, vươn lên vị thế của một quốc gia có các ngành công nghiệp văn hóa phát triển./.