Một số vấn đề về nhân lực chất lượng cao trong phát triển vùng Tây Nam Bộ

Nguyễn Đức Chiện
PGS, TS, Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
11:57, ngày 27-10-2019

TCCS - Theo Báo cáo Điều tra lao động việc làm năm 2014, Tây Nam Bộ có nguồn nhân lực dồi dào về số lượng, chiếm 19,1% lực lượng lao động của cả nước nhưng hạn chế về chất lượng. Dân số vùng Tây Nam Bộ hiện nay khoảng 18 triệu người với 11,4 triệu lao động và vào năm 2020 sẽ có khoảng 18,7 triệu người với hơn 12,6 triệu lao động. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập quốc tế sâu rộng và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0 vào mọi mặt của đời sống xã hội thì nhân lực chất lượng cao sẽ càng có vai trò quan trọng đối với phát triển vùng Tây Nam Bộ.

Nhân lực chất lượng cao có vai trò rất quan trọng trong phát triển ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực đời sống xã hội của khu vực Tây Nam Bộ_Ảnh: Tư liệu

Chất lượng nhân lực là tổng thể năng lực về trí tuệ, thể lực, tâm lực và khí chất trong mối tương quan với khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển bản thân con người và phát triển kinh tế - xã hội. Tiêu chí đánh giá chất lượng nhân lực ở mức cao hay thấp, đáp ứng yêu cầu phát triển nhiều hay ít đều phải căn cứ vào những mục tiêu cần đạt được và mức độ đáp ứng nhu cầu nhân lực của từng vùng lãnh thổ hay quốc gia trong bối cảnh cụ thể.

Ở Việt Nam, nhân lực chất lượng cao được tiếp cận theo nhiều cách thức khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung giữa các tiếp cận này là đều coi nhân lực chất lượng cao là những lao động có trình độ học vấn, tay nghề chuyên môn cao, có kỹ năng làm việc tốt, có năng lực sáng tạo và đặc biệt có khả năng thích ứng nhanh. Nhân lực chất lượng cao phải đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, biết vận dụng tri thức, kỹ năng được đào tạo để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong quá trình lao động. Nhân lực chất lượng cao còn phải đáp ứng đầy đủ các yếu tố về sức khỏe (thể lực); trình độ tay nghề, năng lực chuyên môn (trí lực); đạo đức, lương tâm và ý thức dân tộc (tâm lực). Nhân lực chất lượng cao cần bảo đảm thực chất hơn là số lượng.

Thực tiễn phát triển ở mọi cấp độ đều cho thấy, nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu đối với quá trình sản xuất, kinh doanh của bất kỳ nhà đầu tư hay doanh nghiệp nào muốn phát triển ổn định; đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi địa phương, vùng và lãnh thổ quốc gia.

Dựa vào cách tiếp cận hàm sản xuất, lao động là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu đối với bất cứ quốc gia, doanh nghiệp nào. Các mô hình tăng trưởng đều cho rằng, chỉ có vốn nhân lực mới mang lại tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Vốn nhân lực được tạo thành bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, như trình độ kiến thức, kinh nghiệm làm việc, năng lực cá nhân... Chất lượng của hệ thống giáo dục và đào tạo của mỗi quốc gia, mỗi vùng có ý nghĩa quan trọng tới quy mô, số lượng lao động chất lượng cao hội tụ đủ các yếu tố cấu thành nói trên. Trong thời kỳ hội nhập, người lao động có rất nhiều lựa chọn khác nhau về môi trường giáo dục. Tuy nhiên, trong thực tiễn do bị ràng buộc về vị trí địa lý, ngân sách,... nên phần lớn lao động vẫn phải lựa chọn các cơ sở đào tạo trong vùng, trong phạm vi quốc gia để phát triển kỹ năng và chuyên môn.

Theo lý thuyết tăng trưởng, nếu tích lũy vốn rất quan trọng cho tăng trưởng trong ngắn hạn thì công nghệ mới là yếu tố quyết định để tạo ra tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Khác với những yếu tố đầu vào khác, đóng góp của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thường không có giới hạn và đây là yếu tố chính giúp các quốc gia từ mức kém phát triển trở thành những nước phát triển trên thế giới. Thành quả của các quốc gia phát triển ở phương Tây, như Anh, Pháp, Mỹ, Đức và các nền công nghiệp mới (Nics) gần đây, như Hàn Quốc, Đài Bắc Trung Hoa, Xin-ga-po minh chứng rất rõ về vai trò của khoa học - công nghệ đối với tăng trưởng và phát triển quốc gia. Tuy nhiên, bài học cho thấy, việc phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo lại phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng nhân lực. Nhân lực chất lượng cao giúp khoa học - công nghệ phát triển ở hai khía cạnh chính, đó là:

Thứ nhất, nhân lực chất lượng cao trực tiếp tham gia hoạt động trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo sẽ giúp quốc gia, vùng tạo ra các thành tựu khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ ở trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi toàn cầu. Những thành tựu này thường được thể hiện thông qua các phát minh, sáng chế được các doanh nghiệp, hộ gia đình ứng dụng trong thực tế; qua các giải thưởng được các tổ chức khoa học toàn cầu ghi nhận, như giải Nobel, bản quyền phát minh sáng chế, các công trình xuất bản quốc tế... Kết quả này phản ảnh khá rõ trình độ nguồn nhân lực gắn với trình độ khoa học/trình độ phát triển của các quốc gia trên thế giới.

Thứ hai, khả năng ứng dụng và tiếp thu khoa học - kỹ thuật của người lao động. Khía cạnh này thể hiện vai trò quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao của quốc gia trong việc ứng dụng, sử dụng và làm chủ công nghệ mà thế giới đã tạo ra. Trong bối cảnh hội nhập và tự do hóa thương mại toàn cầu, sự tự do dịch chuyển vốn FDI, công nghệ là rất phố biến trên toàn thế giới. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia sử dụng/ứng dụng khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội để mang lại sự tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành nghề ở mỗi địa phương và lãnh thổ. Nếu chất lượng lao động trong nước, vùng không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp, nhà đầu tư thì sẽ dẫn tới môi trường đầu tư giảm sút (khó thu hút các nhà đầu tư sử dụng công nghệ/trình độ cao). Thậm chí, các vị trí cần lao động chất lượng cao sẽ do người nước ngoài nắm giữ. Khi đó, việc học hỏi và đón nhận hiệu ứng tích cực từ hội nhập và nhà đầu tư FDI sẽ càng thấp.

Kinh nghiệm của các nước phát triển trên thế giới cho thấy, chất lượng nhân lực có tương quan chặt chẽ với kết quả phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ. Mối quan hệ này thể hiện cụ thể ở một số chỉ số quan trọng là trình độ công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp; chỉ số đổi mới sáng tạo, tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) với GDP;  tỷ lệ chi cho R&D trong tổng chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Điển hình là Mỹ và một số nước tiên tiến ở Tây Âu cũng đã thành công khi đã vận dụng mối quan hệ này. Khu vực Đông Á với các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc và vùng lãnh thổ, Đài Bắc Trung Hoa có mật độ dân số đông và không dồi dào về nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng đã rất thành công trong việc gia tăng tốc độ và quy mô tăng trưởng nhờ phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ.

Nhân lực chất lượng cao trong phát triển vùng Tây Nam Bộ

Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, xu hướng dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp (gọi là khu vực truyền thống) sang khu vực công nghiệp và dịch vụ (khu vực đô thị, hiện đại) mạnh mẽ hơn. Đây là xu hướng tất yếu, nhất là với các địa phương có lợi thế phát triển công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, do trình độ lao động của Việt Nam phần lớn vẫn bị các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đánh giá thấp nên quá trình dịch chuyển cơ cấu và chất lượng tăng trưởng chưa thực sự tốt, lao động trong công nghiệp phần lớn là lao động không có kỹ năng, trình độ chuyên môn, tay nghề thấp. Nhìn về thực tế, đánh giá vai trò của nhân lực chất lượng cao trong đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Tây Nam Bộ cho thấy, bức tranh về tốc độ của sự chuyển dịch cũng khác nhau giữa các địa phương trong vùng, nhóm các tỉnh Long An, Kiên Giang, thành phố Cần Thơ có sự chuyển dịch mạnh mẽ hơn so với nhóm các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh. Nhìn toàn cảnh trên phạm vi quốc gia cũng cho thấy, quá trình chuyển dịch ở Tây Nam Bộ diễn ra chậm so với những vùng kinh tế trọng điểm khác (Bắc, Trung, Nam). Tổng kết cho thấy, trong hơn 30 năm đổi mới, sự bứt phá về tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề của vùng Tây Nam Bộ chậm hơn so với các vùng, miền khác trong cả nước.

Có thể thấy, nhân lực chất lượng cao có vai trò rất quan trọng trong phát triển ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội của mỗi địa phương nói riêng và khu vực Tây Nam Bộ nói chung. So với các vùng khác trên cả nước, Tây Nam Bộ là một trong những vùng có năng lực nghiên cứu khoa học và công nghệ yếu so với các vùng phát triển hơn (vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ). Nguyên nhân chủ yếu do các trường đại học, viện nghiên cứu lớn hầu hết tập trung ở các đô thị và thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 2015, số giảng viên đại học, cao đẳng vùng Tây Nam Bộ là 190.292 người, chiếm 8% số giảng viên đại học, cao đẳng trong cả nước. Nhìn chung, tỷ lệ nguồn nhân lực chất lượng cao khá thấp so với cả nước, bình quân có 3,7 giảng viên/vạn dân, bằng một nửa so với mức chung tính cho cả nước. Đây được xem là khoảng trống trong phân bổ nhân lực chất lượng cao cho vùng Tây Nam Bộ. Bên cạnh đó, các địa phương vùng Tây Nam Bộ còn hạn chế trong thu hút những doanh nghiệp quy mô lớn và sử dụng công nghệ cao. Phần lớn các doanh nghiệp tới đầu tư là các doanh nghiệp quy mô nhỏ và tập trung vào những ngành, nghề, lĩnh vực gia công, lắp ráp và sử dụng lao động không có kỹ năng và chuyên môn (dệt may, chế biến thủy sản thô, lắp ráp điện tử). Do đó, khả năng đầu tư và ứng dụng khoa học - công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất ở các địa phương trong vùng vẫn còn thấp so với các địa phương khác ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần quan trọng làm thay đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng (những ngành khai thác tài nguyên, sử dụng lao động giản đơn) sang tăng trưởng theo chiều sâu dựa trên khoa học - kỹ thuật (dịch chuyển sang những ngành chế biến, chế tạo, dịch vụ có năng suất lao động cao hơn). Tuy nhiên, thực tế là ở khu vực này hầu hết lao động chưa qua đào tạo và không có kỹ năng nên khó dịch chuyển sang khu vực kinh tế chính thức (khu vực công nghiệp và trả lương cố định hằng tháng). Những lao động có trình độ tay nghề và chuyên môn thường có xu hướng di cư hoặc tìm những công việc được trả lương cao hơn, nơi họ tạo ra mức năng suất lao động xã hội cao hơn hẳn so với khu vực phi chính thức (lao động nông nghiệp, làm việc tự do phi nông nghiệp). Đối sánh với các vùng khác, Tây Nam Bộ có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất, hay còn được gọi là "vùng trũng"  về nguồn nhân lực.

Một vấn đề đang được xem là thách thức không nhỏ đối với cả nước nói chung và khu vực Tây Nam Bộ nói riêng là nếu không có sự thay đổi căn bản về chất lượng đào tạo, đào tạo nghề cho người lao động thì chỉ có thể thu hút được những nhà đầu tư chất lượng thấp (chỉ tập trung gia công, lắp ráp) thay vì thu hút được các nhà đầu tư chất lượng cao (sử dụng công nghệ cao). Theo kết quả điều tra doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2015 cho thấy, đại đa số các doanh nghiệp ở khu vực Tây Nam Bộ là doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ. Đó cũng là nguyên nhân hạn chế sự dịch chuyển về chất lượng tăng trưởng kinh tế nói chung và chất lượng nguồn nhân lực nói riêng. Trong bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nếu chất lượng lao động chậm được cải thiện, gánh nặng xã hội sẽ rất lớn bởi nhiều vị trí việc làm được thay thế bởi công nghệ, máy móc. Đây là thách thức không nhỏ khi phần lớn vị trí làm việc ở Việt Nam hoàn toàn có thể thay bằng máy móc, rô-bốt. Chính do chất lượng lao động và trình độ khoa học - công nghệ (cả lực lượng khoa học và khả năng đầu tư vào khoa học - công nghệ của doanh nghiệp/hộ gia đình) còn thấp nên năng suất lao động của vùng Tây Nam Bộ chưa cao. Tình trạng này còn có sự khác biệt rất lớn giữa các địa phương trong toàn vùng, Cần Thơ, Long An tiếp tục là các địa phương có nhiều ưu thế lớn hơn Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang về nguồn lực phát triển khoa học - công nghệ.

Bên cạnh đó, ở nhiều tỉnh trong vùng hiện nay phần lớn lao động vẫn tập trung trong khu vực nông nghiệp làm chậm tốc độ tăng trưởng năng suất lao động. Lý do bởi lao động sản xuất nông nghiệp hầu hết chưa qua đào tạo và phương thức sản xuất vẫn còn lạc hậu so với thế giới, diện tích ứng dụng các thành tựu khoa học mới (chất lượng giống, chủng loại cây trồng, sản phẩm) còn hạn chế. Thực tế này được xem như là thách thức lớn đối với việc phát huy vai trò của nguồn nhân lực trong nâng cao năng suất lao động của mỗi địa phương trong vùng Tây Nam Bộ.

Một số vấn đề đặt ra và giải pháp

Một là, có lợi thế nhưng chưa tạo ra động lực. Các địa phương, hộ gia đình trong vùng chưa thực sự chú trọng đầu tư giáo dục để phát triển chất lượng nguồn nhân lực và tiếp cận tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất. Trong nhiều năm qua, Tây Nam Bộ vẫn được xem là một trong những “vùng trũng” về phát triển giáo dục. Rõ ràng, những thuận lợi về điều kiện tự nhiên đã chưa tạo ra động lực cho phát triển, ngược lại, phần nào còn tạo ra một trong những hạn chế lớn nhất của vùng, đó là chất lượng nguồn nhân lực. Việc chưa chủ động, tích cực, quyết liệt trong khai thác lợi thế không chỉ khiến nguồn nhân lực bị hạn chế về chất lượng mà ngay cả việc sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao cũng bị hạn chế. Khả năng ứng dụng khoa học - công nghệ chưa cao nên nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao không nhiều, điều này khiến một số nhân lực có chất lượng cao vốn đã ít lại không được sử dụng. Vốn là khu vực có mô hình sản xuất hộ gia đình lớn nhưng chất lượng nhân lực ở hộ gia đình cũng rất thấp. Nhiều chương trình đưa về để cải tiến, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của hộ gia đình nhưng người dân không biết ứng dụng hoặc ứng dụng không theo quy trình kỹ thuật được hướng dẫn nên hiệu quả không cao.

Hai là, năng suất lao động chưa cao. Do số lượng doanh nghiệp chất lượng cao tới đầu tư tại vùng Tây Nam Bộ còn hạn chế nên nhu cầu về lao động trình độ cao còn thấp. Do chất lượng lao động và trình độ khoa học - công nghệ (cả lực lượng khoa học và khả năng đầu tư vào khoa học - công nghệ của doanh nghiệp/hộ gia đình) còn thấp nên năng suất lao động của vùng Tây Nam Bộ chưa cao. Do vậy, cần có chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể trong đào tạo và thu hút nhân lực chất lượng cao làm việc tại vùng; thu hút những doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước tới đầu tư (đặc biệt những doanh nghiệp chế biến các sản phẩm lương thực, thực phẩm, thủy sản trình độ cao).

Ba là, việc dạy nghề ở các cơ sở đào tạo nghề chưa hiệu quả, đa số người lao động khi làm việc ở công ty chủ yếu là tự tìm hiểu, tự học thêm về các vấn đề liên quan đến công việc được giao. Các kỹ năng mềm của nhân viên với đối tác người nước ngoài cũng không được chú trọng đào tạo nên tính chuyên nghiệp, tính kỷ luật lao động thấp. Sự liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp chưa được xây dựng, trong khi nhiều trường vẫn đào tạo những ngành, nghề mà các doanh nghiệp trên địa bàn có ít hoặc không có nhu cầu thì một số ngành, nghề có nhu cầu nhân lực cao lại chưa có cơ sở đào tạo tương xứng, như y, dược, du lịch, công nghệ sinh học, tự động hóa, luật, hành chính… Nhìn chung, nhân lực có chất lượng cao ở các địa phương Tây Nam Bộ hiện nay ở trong tình trạng vừa thiếu, vừa thừa, thiếu lao động có chuyên môn phù hợp với nhu cầu thị trường, thừa những lao động có bằng cấp nhưng không đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. Do đó, rất cần có sự thay đổi căn bản: 1- Tăng mức đầu tư cho đào tạo nghề, bảo đảm cơ sở vật chất cho dạy nghề đạt hiệu quả thực tế. 2- Chuyển hướng đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với thế mạnh và thực tiễn phát triển của từng địa phương. 3- Duy trì chính sách phát triển ổn định, bền vững, nhất quán, xuyên suốt để làm định hướng cho các cơ sở đào tạo.

Bốn là, khó cạnh tranh trong thu hút lao động chất lượng cao. Do vị trí nằm ngay cạnh vùng Đông Nam Bộ vốn là vùng có mức đô thị hóa và công nghiệp hóa lớn nhất cả nước. Các doanh nghiệp lớn có công nghệ hiện đại thường tập trung đầu tư vào khu vực có nhiều lợi thế phát triển, và thường có chính sách đãi ngộ tốt hơn nên nguồn nhân lực có chất lượng của toàn khu vực cũng chủ yếu được thu hút về đây. Mặc dù đã có những chính sách thu hút nhà đầu tư lớn và nguồn nhân lực có trình độ nhưng khu vực Tây Nam Bộ vẫn chưa cạnh tranh được với khu vực Đông Nam Bộ trong thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao.

Năm là, trong giai đoạn vừa qua, cơ cấu kinh tế ở các địa phương thuộc vùng này đã có những dịch chuyển nhất định từ mô hình dựa chủ yếu vào tài nguyên như trồng trọt và nuôi trồng thủy sản sang công nghiệp và dịch vụ. Quá trình chuyển dịch này diễn ra chậm được xác định nguyên nhân một phần là do nguồn nhân lực, một phần do chủ trương chưa quyết liệt, cơ chế, chính sách kèm theo chưa phù hợp. Để phát triển nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao và công nghiệp, dịch vụ thì nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện không thể thiếu. Bên cạnh đó, cần  kịp thời ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp, cụ thể là các chính sách về thu hút đầu tư, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao…/.