Đồng Tháp Mười: Diện mạo sau 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước
TCCS - Đồng Tháp Mười là vùng đất ngập nước có diện tích khoảng 690.000ha, chiếm 17,7% diện tích tự nhiên của đồng bằng sông Cửu Long. Khu vực Đồng Tháp Mười trải rộng trên 3 tỉnh: Đồng Tháp, Tiền Giang và Long An (nay là tỉnh Tây Ninh và Đồng Tháp); trong đó, tỉnh Long An chiếm hơn một nửa diện tích. Sau 50 năm kể từ ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, nhờ quyết sách đúng đắn, táo bạo của Trung ương và địa phương, vùng đất hoang hóa năm nào đã trở thành vựa lúa, là vùng có nhiều trái cây đặc sản, vùng nuôi trồng, chế biến thủy sản mang lại giá trị kinh tế cao tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Sau ngày giải phóng, Đồng Tháp Mười vẫn là vùng đất sình lầy, hoang hóa với những vạt rừng tràm bát ngát, mùa khô thì nứt nẻ, mùa mưa thì lũ nhấn chìm; hằng năm, nước lũ tràn về gây ngập úng trong nhiều tháng liền, có khi đến 3 - 4 tháng. Vùng đất nhiễm phèn nặng này từng được chuyên gia nước ngoài đánh giá là không thể cải tạo nên khó phát triển sản xuất, trồng trọt. Những nơi có thể canh tác thì cũng chỉ làm được một vụ lúa/năm, bằng các loại giống lúa dài ngày năng suất thấp. Nước ngọt để sản xuất và sinh hoạt thiếu trầm trọng nên đời sống của người dân rất khó khăn, nhất là mùa khô, nắng hạn, tỷ lệ đói nghèo cao. Bên cạnh đó, hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm còn chưa được khắc phục, nhiều vùng bom mìn còn chưa được rà phá, làm cho vùng đất hoang này đã khó, lại càng gian nan. Nhiều người dân đến đây lập nghiệp đã rời bỏ mảnh đất khắc nghiệt này trở về quê hoặc di dời đi nơi khác.
Trước tình hình đó, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An đã sáng tạo đề ra nhiều phương án, tìm hướng đi thích hợp nhằm khai thác hiệu quả, từng bước phát triển vùng đồng bằng rộng lớn này. Năm 1983, Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ III đã khẳng định quyết tâm khai phá mạnh mẽ vùng Đồng Tháp Mười. Chủ trương khai phá, phát triển Đồng Tháp Mười thể hiện rõ tầm nhìn chiến lược, quyết tâm cao và tinh thần tiến công mạnh mẽ của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Long An đối với vùng đất có tiềm năng to lớn, nhưng còn nhiều khó khăn, gian khổ.
Theo đó, tỉnh tập trung chiến lược trước mắt và lâu dài về các vấn đề, như đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tập trung đẩy mạnh phát triển thủy lợi, giao thông, xây dựng hệ thống điện, bưu chính viễn thông, giáo dục, y tế… Phát triển cụm, tuyến dân cư, thị tứ nhằm điều động, phân bổ lại dân cư, thay đổi tập quán làm ăn. Tiến hành phục hóa, khai hoang mở rộng diện tích sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp; tạo điều kiện chuyển lúa mùa một vụ dài ngày, năng suất thấp, bấp bênh sang làm lúa ngắn ngày; tăng vụ thâm canh, tăng năng suất; từng bước chuyển vùng Đồng Tháp Mười thành trọng điểm lương thực, thực phẩm; đưa cây công nghiệp (đay, bàng, tràm) phát triển tương xứng với đất đai.
Tỉnh Long An đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có việc di chuyển, điều động dân cư từ các huyện phía Nam và phía Đông lên, điều động lực lượng thanh niên xung phong, bộ đội kinh tế đến để xây dựng công trình thủy lợi. Một trong những điểm sáng trong quá trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười là tỉnh đã thành lập kịp thời các đoàn quân lao động chủ lực, mạnh về sức trẻ, chặt chẽ về tổ chức, cơ động, sẵn sàng thực hiện “tiến quân vào Đồng Tháp Mười”. Từ đoàn xây dựng kinh tế thử nghiệm đầu tiên được sự đồng ý của Chính phủ và Bộ Quốc phòng, Long An đã tích cực và khẩn trương tổ chức 5 đoàn xây dựng kinh tế Đồng Tháp Mười và đoàn xây dựng kinh tế thanh niên, bố trí trên địa bàn Đồng Tháp Mười. Các đoàn xây dựng này còn là nơi quy tụ đầu mối, tạo dựng thị tứ tại doanh trại mình để người dân đi kinh tế mới đến lập nghiệp.
Với sự đầu tư của Trung ương, năm 1985, kênh Hồng Ngự từng bước định hình, đưa nước sông Tiền chảy về Long An góp phần rửa phèn, đẩy lùi nước mặn, tạo thuận lợi cho trồng trọt. Kênh Hồng Ngự chiều dài hơn 40km nối từ sông Tiền (huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp) với sông Vàm Cỏ Tây (ở thượng nguồn huyện Vĩnh Hưng). Đây là con kênh có quy mô nhất ở vùng Đồng Tháp Mười, hằng năm đưa một khối lượng lớn nước ngọt của sông Tiền cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và khai thác thủy sản của các huyện: Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh. Bên cạnh kênh Hồng Ngự, kênh Măng Đa - Cái Môn được xây dựng là tuyến kênh đóng vai trò quan trọng trong việc “rửa phèn” cho Đồng Tháp Mười. Song song với phát triển thủy lợi, giao thông cũng là lĩnh vực được đặc biệt chú trọng trong hành trình “tiến quân” về Đồng Tháp Mười. Ngoài củng cố và nâng cấp hệ thống giao thông cũ, tỉnh còn tập trung xây dựng các tuyến đường mới phục vụ phát triển kinh tế và quốc phòng. Trong đó, nổi bật nhất là đường tỉnh 49 (quốc lộ 62) xuyên Đồng Tháp Mười. Công trình đó được xem là niềm tự hào của tỉnh Long An, là kết quả của quá trình lao động bền bỉ, kiên cường, dũng cảm của hàng vạn người dân trong tỉnh.
Chỉ trong hai năm 1983 và 1984, tỉnh Long An đã huy động được hơn 4,2 triệu ngày công, đào đắp 3 triệu mét khối đất. Hệ thống thủy lợi, như kênh mương, cống đập, trạm bơm tưới tiêu, xả phèn, ngăn mặn được xây dựng và mở rộng đã đáp ứng việc canh tác cho 9.500ha ruộng ở vùng Đồng Tháp Mười. Mạng lưới giao thông liên lạc bảo đảm thông suốt từ tỉnh đến huyện. Các công trình phục vụ sinh hoạt, đời sống cũng nối tiếp nhau hoàn thành.
Từ quyết sách táo bạo và đúng đắn về giao thông, thủy lợi, vùng Đồng Tháp Mười thực sự “trở mình” thức giấc. Từ vùng đất hoang vu, giờ đây Đồng Tháp Mười đã trở thành vựa lúa, vựa trái cây của đồng bằng sông Cửu Long. Nhờ việc đầu tư hệ thống thủy lợi, nên năng suất lúa tăng lên gấp 3 - 5 lần. Khi chưa có những dòng kênh rửa phèn thì chỉ làm được 1 vụ lúa với năng suất cao nhất khoảng 2 tấn/ha, còn hiện nay năng suất đã đạt 7 - 8 tấn/ha/vụ; nhiều diện tích đã sản xuất lúa 3 vụ, góp phần tăng năng suất và sản lượng. Nếu năm 1980, sản lượng lương thực của tỉnh Long An chỉ khoảng 500.000 - 600.000 tấn thì đến nay, con số này đạt hơn 3,1 triệu tấn; trong đó, khu vực Đồng Tháp Mười chiếm hơn 80%, trở thành vựa lúa lớn của cả tỉnh. Đây là kết quả từ sự đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng sản xuất, mở rộng diện tích gieo trồng các loại giống lúa chất lượng cao, ứng dụng cơ giới, khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Từ năm 2022, tỉnh Long An đã xây dựng, triển khai Đề án thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu cây ăn quả vùng Đồng Tháp Mười, đến nay đã đạt nhiều kết quả tích cực, với nhiều loại cây trồng, như mít, sầu riêng, chanh, bưởi… Để bảo đảm thực hiện mục tiêu đặt ra, ngành nông nghiệp tỉnh Long An định hướng người dân chuyển đổi và phát triển các loại cây ăn quả theo đúng quy hoạch kết hợp phát triển hạ tầng tương ứng, bảo đảm tính thích nghi với điều kiện đất đai, nước tưới…
Nắm bắt xu thế phát triển chung, nông dân Đồng Tháp Mười từng bước ứng dụng khoa học - kỹ thuật, phát triển chuỗi sản xuất nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao. Thông qua lớp tập huấn, sự đồng hành của chính quyền các cấp, nông dân tham gia chương trình từng bước ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất, giảm giống, giảm phân vô cơ, giảm chi phí đầu tư, nâng cao năng suất và lợi nhuận. Với vai trò trung gian, hợp tác xã kết nối cùng doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, vật tư nông nghiệp với mức giá ưu đãi cho thành viên, đồng thời hợp tác xã liên kết sản xuất, tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao.
Cùng với phát triển kinh tế, lĩnh vực văn hóa, xã hội ở vùng Đồng Tháp Mười được tỉnh Long An quan tâm đầu tư. Đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên, nhiều vùng nông thôn ở Đồng Tháp Mười đã đạt chuẩn nông thôn mới. Bệnh viện Đa khoa khu vực Đồng Tháp Mười có quy mô 500 giường, được đầu tư nhiều trang thiết bị hiện đại với đội ngũ y, bác sĩ có trình độ cao, góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân các địa phương trong vùng. Bên cạnh đó, lĩnh vực giáo dục được quan tâm, đáp ứng tốt nhu cầu học tập của học sinh khu vực Đồng Tháp Mười.
Từ ngày 1-7-2025, Long An và Tây Ninh sáp nhập thành tỉnh Tây Ninh mới, mở ra kỳ vọng lớn về một mô hình phát triển mới, gắn kết các vùng động lực - từ công nghiệp, nông nghiệp đến du lịch và kinh tế biên giới. Không gian phát triển mới mang đến nhiều vận hội mới cho tỉnh Tây Ninh nói chung, vùng đất Đồng Tháp Mười nói riêng./.
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm