Già hóa dân số ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và khuyến nghị chính sách
TCCS - Ngày 10-4-2024, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Ninh Bình tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Già hóa dân số ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và khuyến nghị chính sách”.
Dự hội thảo có các đồng chí: Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh; các đồng chí Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng: Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Lê Hải Bình, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Tôn Ngọc Hạnh; Nguyễn Thanh Bình, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương, Chủ tịch Hội Người cao tuổi Việt Nam; đại diện lãnh đạo các cơ quan trung ương, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đại biểu quốc tế, đại diện lãnh đạo hội người cao tuổi của 14 tỉnh khu vực đồng bằng Bắc Bộ...
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, GS, TS Nguyễn Xuân Thắng đánh giá cao sáng kiến của Trung ương Hội Người cao tuổi Việt Nam, Tỉnh ủy Ninh Bình và Tạp chí Cộng sản trong việc phối hợp tổ chức hội thảo. Đây là hoạt động khoa học thiết thực, đề cập đến một vấn đề mang tính thời sự của đất nước, góp phần phục vụ việc xây dựng Chiến lược quốc gia về người cao tuổi Việt Nam, việc sửa Luật Người cao tuổi, tổng kết 30 năm thực hiện Chỉ thị số 59/CT-TW, “Về chăm sóc người cao tuổi”, triển khai Kết luận số 58-KL/TW, của Ban Bí thư, “Về tổ chức và hoạt động của Hội Người cao tuổi Việt Nam”, tổng kết quá trình 30 năm xây dựng và phát triển của Hội Người cao tuổi Việt Nam; đặc biệt, đóng góp vào việc tổng kết 40 năm đổi mới và cung cấp luận cứ tham gia xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
Phát biểu chào mừng tại hội thảo, đồng chí Đoàn Minh Huấn thông tin khái quát về lịch sử, vị trí địa lý và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình; một số kết quả nổi bật, toàn diện mà Ninh Bình đạt được, quyết tâm phấn đấu xây dựng và phát triển tỉnh Ninh Bình trở thành thành phố trực thuộc Trung ương với đặc trưng đô thị di sản thiên niên kỷ, thành phố sáng tạo...
Trong lộ trình phát triển đó, tỉnh Ninh Bình luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến người cao tuổi. Hiện nay, toàn tỉnh có hơn 182 nghìn người cao tuổi, chiếm 16,2% dân số. Chỉ số già hóa của tỉnh Ninh Bình có xu hướng tăng nhanh: năm 2019 là 60,28%, tăng 10,52% so với năm 2009, cao hơn toàn quốc là 11,48 điểm phần trăm và cao hơn vùng đồng bằng sông Hồng 2,88 điểm phần trăm. Trước xu hướng già hóa dân số, tỉnh Ninh Bình xác định rõ vai trò, tầm quan trọng và thực hiện các giải pháp để chủ động thích ứng với già hóa dân số; đã ban hành nhiều chính sách và thực hiện hiệu quả hỗ trợ hoạt động đối với tổ chức của người cao tuổi; người cao tuổi trên địa bàn tỉnh được chăm sóc ngày càng tốt hơn, đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được cải thiện, tiếp tục đóng góp quan trọng cho phát triển của tỉnh. Trong tháng 4-2024, Ban Thường vụ Tỉnh ủy sẽ cho chủ trương thành lập Hội Người cao tuổi cấp tỉnh và cấp huyện, để thực hiện tốt hơn vai trò đại diện cho quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người cao tuổi. Hội thảo diễn ra tại địa phương cũng là cơ hội để tỉnh Ninh Bình nhận thức sâu sắc, toàn diện những vấn đề đặt ra đối với xu hướng già hóa dân số và những giải pháp toàn diện hơn để vừa giải quyết các vấn đề hiện tại do tác động của già hóa dân số tới xã hội, vừa phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, giúp tỉnh đạt được những tiến bộ và kết quả tích cực trong việc chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, chủ động thích ứng với già hóa dân số.
Khai mạc hội thảo, đồng chí Nguyễn Thanh Bình khẳng định, truyền thống dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa là trọng lão, coi người cao tuổi là rường cột xã tắc, truyền thống cao quý đó tiếp tục được kế thừa, phát huy trong thời đại Hồ Chí Minh. Người cao tuổi là trung tâm về trí tuệ, tâm huyết, chỗ dựa tinh thần dân tộc. Vì vậy, hội thảo này sẽ bàn luận, gợi mở định hướng chính sách đối với một vấn đề có tính toàn cầu, mang tầm tư duy chiến lược đối với sự phát triển bền vững, ổn định đất nước, bảo đảm an sinh xã hội, cung cấp luận cứ khoa học giúp Đảng, Nhà nước kịp thời có cơ chế, chính sách thích ứng với xu hướng già hóa dân số nhanh ở Việt Nam.
Hội thảo nhận được hơn 80 báo cáo tham luận của các chuyên gia, nhà khoa học đến từ các tổ chức quốc tế, tập trung vào 4 nội dung cơ bản: Một là, một số vấn đề chung về già hóa dân số, như vấn đề dân số và phát triển, vấn đề biến đổi cơ cấu xã hội, vấn đề lao động - việc làm, vấn đề an sinh xã hội, an ninh con người ở Việt Nam…; hai là, làm rõ hơn thực trạng già hóa dân số ở Việt Nam; những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế; thách thức cần vượt qua và cơ hội cần nắm bắt; ba là, bài học kinh nghiệm ứng phó với già hóa dân số của các quốc gia trên thế giới; những tham khảo và điều kiện bảo đảm thực hiện của Việt Nam khi áp dụng kinh nghiệm các nước; bốn là, dự báo xu hướng già hóa và các giải pháp, khuyến nghị chính sách thích ứng bối cảnh già hóa dân số nhanh ở Việt Nam.
Theo Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), từ năm 2011, Việt Nam bắt đầu quá trình già hóa dân số. Dự kiến, vào năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn dân số già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 20% hoặc tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên trên 14%; đến năm 2049, Việt Nam trở thành xã hội siêu già với tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 25% hoặc tỷ lệ người từ 65 trở lên chiếm trên 20% tổng dân số. Điểm cơ bản tạo ra các thách thức đối với Việt Nam là nước ta chỉ có khoảng 20 năm để chuyển từ xã hội già hóa dân số sang xã hội dân số già, trong khi Pháp là 115 năm, Thụy Điển 89 năm, Mỹ 69 năm... Như vậy, trong khi các nước có hàng trăm năm hoặc hơn nửa thế kỷ để từng bước thay đổi chính sách, ứng phó với sự già hóa dần, thì Việt Nam chỉ có khoảng 1/4 thế kỷ. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải có các chính sách thích ứng tức thời, vừa trực diện vào ngay những tác động của già hóa dân số, vừa mang tính dài hơi.
Già hóa dân số nhanh tạo ra những thách thức và cơ hội đối với Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn; tạo ra các tác động đa chiều, đến nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến an sinh, xã hội và văn hóa; ảnh hưởng đến cơ cấu xã hội, cơ cấu kinh tế, trong đó trước mắt là cơ cấu lao động và tăng trưởng kinh tế. Để vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội thì rất cần những chính sách thích ứng tầm quốc gia. Quá trình xây dựng và ban hành chính sách cần chú ý đến một số vấn đề như:
Thứ nhất, người cao tuổi Việt Nam vốn có truyền thống “tuổi cao chí càng cao”, được Đảng ta xác định là nguồn lực quan trọng, quý báu, là nhân lõi cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là chỗ dựa tinh thần cho đất nước phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, góp phần hiện thực hóa khát vọng dân tộc hùng cường. Được hun đúc từ trong lịch sử, hào khí “Diên Hồng” đã trở thành truyền thống bất diệt, thể hiện chí khí xả thân vì nước của các vị phụ lão nước ta, trở thành vốn quý, là biểu tượng của ý chí tự chủ, tự lực, tự cường. Trong bối cảnh hiện nay, người cao tuổi vẫn luôn tỏ rõ chí khí, sẵn sàng tiếp tục dõi theo, cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân. Để thực sự đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng tiếp tục được cống hiến của một bộ phận người cao tuổi, nhất là phát huy được nguồn nhân lực chất lượng cao là người cao tuổi vào công cuộc phát triển đất nước, bên cạnh tư duy coi người cao tuổi là hồng phúc của dân tộc, là “tài sản”, là “nguồn tài nguyên” quý giá của đất nước, thì Đảng, Nhà nước cần có những hành động cụ thể, đó là ban hành các chính sách phù hợp với người cao tuổi, bảo đảm chăm sóc sức khỏe thể chất, đáp ứng nhu cầu tinh thần, nhu cầu tài chính của người cao tuổi, như chính sách về y tế, bảo hiểm, giáo dục nghề nghiệp, ưu đãi tài chính, thuế…
Thứ hai, xây dựng và ban hành chính sách phải bảo đảm tính đến các yếu tố đặc thù riêng của quá trình già hóa dân số nhanh ở Việt Nam hiện nay. Cụ thể: 1- Việt Nam có tốc độ già hóa nhanh và trong bối cảnh đất nước chưa giàu, ý thức chuẩn bị cho cuộc sống tuổi già ở cả người trẻ tuổi và người già chưa cao, sức khỏe của đa số người cao tuổi chưa được cải thiện,…; 2- Già hóa dân số ở Việt Nam diễn ra không đồng đều giữa các vùng, miền của đất nước, không cân bằng về giới, chủ yếu ở nông thôn và nghiêng về nữ giới; 3- Hệ thống chính sách chưa thực sự theo kịp tình hình thực tế, kết cấu hạ tầng xã hội chưa thực sự đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng trong chăm sóc người cao tuổi, trong sử dụng lao động cao tuổi, trong khi nhu cầu được tiếp tục làm việc, cống hiến gia tăng. Sự gia tăng này phản ánh nhu cầu được đóng góp về tinh thần, trí tuệ, nhưng cũng cho thấy nhu cầu về kinh tế, có tài chính để chi phí cho cuộc sống hằng ngày. Theo số liệu của Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hiện mới có khoảng 39% số người cao tuổi được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người có công và trợ cấp xã hội; 61% còn lại sống dựa hoàn toàn vào thu nhập không cao và không thường xuyên, chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp và phụ thuộc vào con cháu,… Đây là một số đặc điểm cơ bản, quan trọng cần được xem xét khi xây dựng các chính sách và chương trình ứng phó với quá trình già hóa dân số nhanh ở Việt Nam để bảo đảm công bằng cho tất cả các nhóm tuổi, hướng đến phát triển bền vững.
Thứ ba, xây dựng và ban hành chính sách phải bám sát các thách thức đang đặt ra trong thực tiễn hiện nay, đồng thời có tầm nhìn xa để nắm bắt các cơ hội, giải quyết các vấn đề trong dài hạn.
Quá trình già hóa dân số ở nước ta đang đặt ra nhiều thách thức, trong đó nổi lên 2 thách thức lớn: 1- Sự chuyển dịch cơ cấu dân số dẫn đến suy giảm lực lượng lao động trong độ tuổi lao động; suy giảm năng suất lao động và tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. 2-Áp lực tài chính gia tăng, đặc biệt đối với xã hội có tốc độ già hóa dân số nhanh nhưng chưa giàu, dẫn đến nguy cơ tăng nợ và thâm hụt, đẩy lãi suất lên cao, đe dọa đến sự ổn định kinh tế vĩ mô; tạo sức ép trong bảo đảm thu nhập, bảo đảm an sinh, bảo đảm chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi… Do đó, các chính sách cần định hướng hỗ trợ người trẻ tuổi chuẩn bị tốt cho tuổi già của cha mẹ và bản thân từ sớm thông qua việc tham gia thị trường lao động, tham gia bảo hiểm để bảo đảm có thu nhập thường xuyên khi về già; cải cách và tăng cường hệ thống bảo hiểm xã hội; tăng tuổi nghỉ hưu chính thức và thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ; giảm các ưu đãi tài chính cho việc nghỉ hưu sớm và rút bảo hiểm xã hội một lần; bình đẳng hóa phúc lợi giữa người lao động khu vực công và tư nhân để mở rộng phạm vi bao phủ của hệ thống bảo hiểm xã hội; thúc đẩy hợp tác công - tư (PPP) trong cung cấp dịch vụ chăm sóc xã hội cho người cao tuổi…
Thứ tư, xây dựng và ban hành chính sách thích ứng bối cảnh già hóa dân số nhanh ở Việt Nam phải bảo đảm tính đến năng lực của các cơ quan trong hệ thống công, phải phát huy được các nguồn lực từ cộng đồng, gia đình. Già hóa dân số không đơn thuần là vấn đề của người cao tuổi, là chăm lo cho sức khỏe thể chất cho người cao tuổi, mà nhìn sâu hơn, đặc biệt khi Việt Nam đã tiệm cận giai đoạn dân số già, thì đó là vấn đề của quốc gia, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước. Người cao tuổi là thành viên trong mỗi gia đình, có liên kết, ảnh hưởng trực tiếp đến cộng đồng, có vai trò quan trọng trong xã hội. Mỗi sự thay đổi chính sách để triển khai thành công trong thực tế đều đòi hỏi sự yêu thương, trân trọng từ trong từng gia đình đối với người cao tuổi, sự tham gia tích cực từ cộng đồng, các doanh nghiệp và sự định hướng, đầu tư của Nhà nước.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nếu quốc gia nào chủ động thích ứng, đi trước một bước về đổi mới tư duy, ban hành cơ chế, chính sách có tính mở đường, thì sẽ phát huy được tiềm năng nguồn lực người cao tuổi, bảo đảm an sinh xã hội bền vững.
Các ý kiến phát biểu tại hội thảo đã cung cấp những góc nhìn đa chiều, đề cập tới những vấn đề cốt lõi liên quan tới cơ chế, chính sách phù hợp ở nước ta. Tập trung vào một số nội dung: Phát huy vai trò của người cao tuổi trong hoạt động khoa học, chủ động thích ứng với già hóa dân số; phát huy và trọng dụng trí thức cao tuổi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; thực trạng, cơ hội, thách thức và giải pháp chính sách về già hóa dân số tại Việt Nam; mô hình xã hội hóa trong xây dựng cơ sở dưỡng lão, góp phần đáp ứng nhu cầu chăm sóc người già thích ứng với già hóa dân số nhanh; xu hướng già hóa dân số, đặc điểm người cao tuổi ở Việt Nam và khuyến nghị chính sách…
Tổng kết và bế mạc hội thảo, PGS, TS Lê Hải Bình đánh giá cao các ý kiến đóng góp hết sức tâm huyết của các đại biểu. Tất cả các ý kiến đã được trao đổi tại hội thảo cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và cả xã hội đến vấn đề già hóa dân số ở Việt Nam hiện nay. Các ý kiến đã tập trung vào 4 vấn đề căn cốt, trọng tâm: (1) Vai trò của người cao tuổi ở Việt Nam. (2) Già hóa dân số là một vấn đề mang tính toàn cầu, nhưng ở đất nước ta có những đặc thù riêng. (3) Đảng ta luôn khẳng định người cao tuổi là thành tố quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của sức mạnh nhân dân; là những người đi đầu trong việc phát huy dân chủ ở cơ sở, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; đóng vai trò thiết yếu trong việc phát huy mạnh mẽ sức sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của mọi tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; là nguồn lực hết sức quý báu đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. (4) Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, kinh nghiệm ứng phó chính sách đối với vấn đề già hoá dân số của các nước đi trước rất có ý nghĩa cho các nước đi sau tham khảo.
Học hỏi kinh nghiệm của nhiều nước đã trải qua thời kỳ già hóa dân số, chúng ta tích lũy được nhiều bài học trong ban hành chính sách, trong huy động nguồn lực xã hội, sử dụng hợp lý nguồn lực người cao tuổi, sáng tạo mô hình hoạt động ngày càng phong phú, thiết thực, tạo môi trường sinh hoạt cộng đồng bổ ích cho người cao tuổi để biến những thách thức của xu hướng già hóa dân số thành những cơ hội phát triển mới, góp phần xây dựng một nền kinh tế nhân văn, vì con người./.
Phát huy hào khí “Diên Hồng”, người cao tuổi Việt Nam tiếp tục cống hiến vì khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc  (09/04/2024)
Tạo việc làm cho người cao tuổi trong bối cảnh hiện nay  (11/01/2024)
Giải quyết mối quan hệ giữa phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội: Nhìn từ quản trị vùng và địa phương  (22/12/2023)
Những vấn đề lý luận và thực tiễn công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức trong giai đoạn mới  (14/10/2023)
Ninh Bình: Định dạng bản sắc gắn với xây dựng thương hiệu địa phương  (27/08/2023)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển