Việt Nam với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
Cách đây vừa tròn 60 năm, ngày 10-12-1948, tại Pa-ri (Pháp) Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người". Quyền con người là giá trị xuyên suốt các chế độ xã hội, là thước đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của mỗi dân tộc. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là xã hội hướng đến bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, là xã hội có nhiều điều kiện tốt nhất để bảo đảm các quyền con người.
1. Quyền con người - giá trị chung xuyên suốt mọi chế độ xã hội
Cách đây vừa tròn 60 năm, ngày 10-12-1948, tại Pa-ri (Pháp) Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”(1). Từ đó đến nay, mặc dù các quốc gia, dân tộc trên thế giới vẫn còn sự khác biệt, mâu thuẫn về hệ tư tưởng, lợi ích chính trị, song cùng với Hiến chương Liên hợp quốc, văn kiện này đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Đó là, nền tảng cho một cơ chế quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề bất đồng giữa các quốc gia dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng quyền dân tộc tự quyết và quyền con người đã hình thành. Cho dù hiện nay vẫn còn các thế lực lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền gây ra các cuộc chiến tranh xâm lược và xung đột vũ trang, can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia, dân tộc, song không phải vì vậy mà những tư tưởng cao cả của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người mất đi các giá trị của nó.
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc. Mỗi một bước tiến của lịch sử, quyền con người lại được mở rộng và nâng cao thêm một bước. Ngày nay, quyền con người được xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa.
Sở dĩ Tuyên ngôn về Quyền con người có thể vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian là vì Văn kiện này đã chứa đựng những giá trị tinh thần cao cả của các quốc gia, dân tộc, như là một trong những thành tựu của nền văn minh nhân loại trong thế kỷ XX.
Ngược dòng thời gian trở lại thời điểm ra đời của Liên hợp quốc và ý tưởng soạn thảo Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, ta thấy, đây là một trong những thời điểm quý giá, hiếm hoi trong lịch sử nhân loại – khi mà các quốc gia dân tộc không phân biệt hệ tư tưởng, chế độ, xã hội, bản sắc văn hoá, trình độ phát triển đã có được những nhận thức chung, sâu sắc nhất về những giá trị cơ bản nhất cũng như các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là, thời điểm mà nhân loại đã thức tỉnh sau khi chủ nghĩa phát xít tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược và thống trị dã man, mang tính huỷ diệt nền văn minh nhân loại. Đó là thời điểm, hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa – bao gồm Liên Xô và các nước Đông Âu đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là đã góp phần quan trọng đánh bại chủ nghĩa phát xít. Đó là thời điểm phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh ra đời. Bối cảnh đó đã tác động mạnh mẽ, tạo thành xu hướng tiến bộ trong quá trình soạn thảo và thông qua bản Tuyên ngôn lịch sử này.
Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người, ngoài Lời nói đầu, bao gồm 30 điều đã đề cập tới hầu hết các vấn đề của đời sống con người. Có thể nói, Tuyên ngôn không chỉ chọn lọc, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại mà còn đề cập tới những vấn đề mang tính thách thức đối với các hệ thống xã hội vào thời điểm đó, chẳng hạn như quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng tôn giáo; quyền tự do hội họp, lập hội; quyền được tham gia vào việc quản lý đất nước... Đó là, những nhu cầu bức thiết của đại bộ phận dân chúng vẫn chưa được đáp ứng ngay cả ở những nước được coi là phát triển nhất. Các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá như quyền làm việc, bao gồm quyền được bảo vệ, chống lại thất nghiệp; quyền được giáo dục …, được xem là những ưu thế của hệ thống xã hội chủ nghĩa sau nhiều cuộc tranh luận, rút cuộc đã được đưa vào Tuyên ngôn(2).
Về mặt chính trị, Tuyên ngôn là một trong ba cột trụ của Liên hợp quốc (3) là điểm đồng cơ bản giữa các quốc gia dân tộc, là sự khẳng định đạo lý, là con đường phát triển chung của nền văn minh nhân loại. Nói như vậy không có nghĩa Tuyên ngôn đã san bằng, đã hòa tan những khác biệt về chính trị, tư tưởng và văn hoá giữa các quốc gia dân tộc, mà chỉ nói lên rằng, Văn kiện này do nhờ sự khéo léo trong biên soạn, sự mềm dẻo trong quá trình thông qua đã tạo ra khả năng dung nạp những sự khác biệt nào đó bởi hệ tư tưởng và chế độ xã hội để đi đến những “mẫu số chung” mà đại diện các quốc gia đều có thể chấp nhận được.
Về mặt pháp lý, tuy Tuyên ngôn không phải là một văn kiện có tính ràng buộc đối với các quốc gia, như các công ước, song Văn kiện này đã mang tính pháp lý cao hơn bất cứ một tuyên ngôn, tuyên bố nào, bởi nó được thông qua bằng một nghị quyết của Đại hội đồng (Nghị quyết 217 (III)). Tuyên ngôn, cho đến nay, vẫn được xem là một khuôn khổ pháp lý, một tập quán quốc tế, hoặc luật tục trên lĩnh vực quyền con người.
Dựa trên Tuyên ngôn, nhiều công ước cơ bản và chuyên biệt đã được xây dựng và thông qua. Giá trị quan trọng nhất của Tuyên ngôn là ở chỗ, Văn kiện này tạo thành cơ sở chính trị, pháp lý cho có chế giám sát quốc tế về quyền con người, bao gồm các điều ước và hệ thống các cơ quan nhân quyền thuộc Liên hợp quốc.
2. Quyền con người ở Việt Nam
Trong thế kỷ XX, với việc giành thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến thần thánh chống đế quốc Pháp và Mỹ, dân tộc Việt Nam, đã có những đóng góp quan trọng vào việc mở rộng khái niệm quyền con người với tư cách là một giá trị chính trị - pháp lý quốc tế. Quyền con người không chỉ là quyền của cá nhân mà còn là quyền của dân tộc. Nói cách khác, là một quyền tập thể của quyền con người. Chức năng cơ bản của quyền này là bảo đảm các điều kiện cho các quyền và tự do của cá nhân. Đó là sự kế thừa có chọn lọc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Cách tiếp cận của Người kế thừa chọn lọc các giá trị nhân quyền tiến bộ từ nhiều học thuyết, nhiều nền văn hoá, nhiều hệ tư tưởng, nhiều chế độ xã hội. Người mở rộng khái niệm quyền của cá nhân thành quyền của dân tộc, tạo thành các tiền đề và điều kiện cho tất cả các dân tộc được hưởng thụ các quyền con người, mà trước đây, sự hưởng thụ những quyền này mới chỉ được tuyên bố ở “chính quốc”, ở các nước tư bản phát triển. Hồ Chí Minh cũng đã khái quát những giá trị đó thành tư tưởng lớn của thời đại ngày nay, đó là "Không có gì quý hơn độc lập, tự do(4). Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân.
Nhìn từ lăng kính quyền con người, cũng có thể nói, Cách mạng Tháng Tám đã mở ra thời đại quyền dân tộc tự quyết gắn liền với quyền công dân và quyền con người được xác lập trên đất nước ta. Lập luận về đạo lý của cuộc cách mạng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp đã lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa... Từ mùa thu năm 1940, nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích. “Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay… hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”, đó chính là lý do vì sao nhân dân ta phải đứng lên làm cách mạng giải phóng dân tộc. Lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn trùng hợp với triết lý của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người. Trong Lời nói đầu Văn kiện này viết “quyền con người phải được bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền, nếu con người không bị bắt buộc phải nổi dậy chống lại sự độc tài và áp bức như một phương sách cuối cùng”(5).
Khác với nhiều cuộc cách mạng khác, Cách mạng Tháng Tám không chỉ đem lại các quyền và tự do cho một bộ phận dân cư, mà còn đem lại quyền con người cho tất cả mọi người, không phân biệt họ thuộc giai tầng, đẳng cấp nào, là người lao động hay người trí thức. Cách mạng không chỉ trực tiếp mang lại các quyền và lợi ích chính trị, kinh tế cho nhân dân lao động, mà còn đem lại tự do, nhân phẩm và những giá trị văn hoá tinh thần cho các dân tộc Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc kéo dài hơn 30 năm (1945 đến 1975), quy luật của chiến tranh buộc nhân dân Việt Nam phải hy sinh một phần nào đó trên lĩnh vực quyền con người để tập trung sức lực vào mục tiêu đánh bại quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc. Tuy vậy, không có bất kỳ một thời kỳ nào Đảng, Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chăm lo tới sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nhà nước do nhân dân làm chủ. Hiếm có một quốc gia nào, ngay sau khi giành được độc lập, đã lập tức tiến hành tổng tuyển cử, bầu Quốc hội, xây dựng và thông qua Hiến pháp, trong đó các quyền và tự do cơ bản của công dân – bộ phận quan trọng nhất của quyền con người được trân trọng ghi nhận. Đồng thời, tính mạng, tài sản của kiều dân nước ngoài cũng được bảo vệ.
Từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thập niên 90 của thế kỷ XX, tuy thuật ngữ quyền con người không được sử dụng trong các văn kiện nhà nước, song nội hàm của khái niệm này đã tồn tại trong khái niệm Quyền Công dân được quy định trong Hiến pháp và luật. Có thể nói, sau sự hy sinh của nhân dân Liên Xô trong chiến tranh thế giới thứ II, chưa có một dân tộc nào đã đổ nhiều xương máu để giữ gìn độc lập dân tộc như nhân dân Việt Nam.
“Chỉ có sức mạnh vật chất mới có thể đánh bại được sức mạnh vật chất”, như C. Mác nói, song sức mạnh tinh thần của nhân dân cũng có thể chuyển hóa thành sức mạnh vật chất. Sức mạnh tinh thần của nhân dân Việt Nam là sự tích hợp truyền thống dân tộc, chủ nghĩa Mác - Lê nin, sức mạnh của thời đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó bao hàm các giá trị nhân quyền, nhân văn của nhân loại. Cốt lõi của những giá trị đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát trong tư tưởng lớn “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Trong thời kỳ Đổi mới, khái niệm quyền con người được đưa vào Cương lĩnh (1991) của Đảng và Hiến pháp (1992) của Nhà nước. Ngay sau khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc, Nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng ký kết và phê chuẩn hầu hết các công ước quốc tế quan trọng về quyền con người, trong đó có hai công ước bao quát đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của con người, đó là, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 và Công ước quốc tế, về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, 1966. Đồng thời đã luật hoá các công ước đó vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Theo con số thống kê chưa đầy đủ, từ 1986 đến nay, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua 58 luật, 43 pháp lệnh, trong đó có những bộ luật lớn trực tiếp bảo đảm các quyền con người như: Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Lao động; Luật Chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em... Những năm gần đây, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống HIV/ AIDS, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáp; Luật Phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Luật Bình đẳng giới; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; và mới đây là Luật Cán bộ, công chức...
Có thể nói, những quy định của pháp luật Việt Nam ngày nay đã bao quát đầy đủ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người, từ các quyền dân sự, chính trị đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá.
Năm 1998, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Chỉ thị về “Quy chế Dân chủ ở cơ sở”, mà nội dung cơ bản là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Các quyền tham gia quản lý của nhân dân đã được thể chế hoá, cụ thể hóa trong các nghị định của Chính phủ.
Công tác bầu cử, ứng cử đã được đổi mới theo hướng mở rộng sự lựa chọn cho các cử tri. Tổ chức và sinh hoạt Quốc hội có những cải tiến theo hướng bảo đảm cho cơ quan này hoạt động hiệu quả, có thực quyền, thật sự là cơ quan quyền lực đại diện của nhân dân.
Hội nghị Trung ương ba, khoá X đã chủ trương xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm mở rộng công khai, nghiên cứu ban hành luật về bảo đảm quyền được thông tin của công dân … Chủ trương này được xem là giải pháp quan trọng chống tham nhũng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, dựa trên quan điểm “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội(6). Quyền tự do ngôn luận, báo chí được tôn trọng. Luật Báo chí quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí …”, báo chí “không bị kiểm duyệt”.
Việc thực hiện quyền của các dân tộc thiểu số mặc dù còn có những hạn chế do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử để lại, nay đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là việc cải thiện, xây dựng kết cấu hạ tầng về kỹ thuật và xã hội. Chính sách “cử tuyển” và xây dựng “trường dân tộc nội trú” cho con em đồng bào các dân tộc được xem là một chính sách “bất bình đẳng tích cực”, nhằm rút ngắn khoảng cách về phát triển giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh.
Thành tựu nổi bật và quan trọng về quyền con người trong thời kỳ đổi mới là việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Quyền làm việc và tự do kinh doanh được bảo đảm nhờ nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên nhanh từ dưới 200 USD (vào cuối những năm 70 thế kỷ XX) lên 640 USD vào năm 2006, và năm nay (2008) theo dự báo, có thể lên đến 1000 USD, nếu tính theo sức mua thì khoảng trên 1200USD. Hệ thống giáo dục và y tế, sau một thời gian xuống cấp, nay đã được khôi phục và phát triển. Hiện nay 100% các tỉnh, thành phố đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học. Những lệch lạc, khuyết tật trong lĩnh vực giáo dục đã và đang được điều chỉnh, sửa chữa.
Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã đạt được những thành tích rất “ấn tượng”. Có tới 94,6% các cháu nhỏ được sử dụng thuốc dự phòng; 6 bệnh: lao, sởi, ho gà bạch cầu, uốn ván, bại liệt ở trẻ em, đã được loại trừ về cơ bản…
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2005 là 0,709 xếp thứ 109/177 quốc gia(7). Theo chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) chỉ số HDI của Việt Nam có hai điểm tích cực, đó là thứ hạng hàng năm tăng liên tục; và chỉ số HDI nhìn chung xếp cao hơn chỉ số phát triển kinh tế.
Việt Nam với Tuyên ngôn thế giới về quyền con người  (08/12/2008)
Quyết liệt thực hiện 5 nhiệm vụ trọng tâm  (08/12/2008)
Những sự kiện trong nước đáng chú ý trong tuần (từ 1-12 đến 7-12-2008)  (08/12/2008)
SKP - KPSS: Tổ chức kế tục Đảng Cộng sản Liên Xô  (08/12/2008)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên