Hà Nội ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng chính quyền điện tử
TCCS - Đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin là một trong những tiền đề quan trọng để thành phố Hà Nội xây dựng chính quyền điện tử, với tiêu chí “lấy người dân làm trung tâm của sự phục vụ”.
Hiệu quả rõ nét trong cải cách hành chính và phòng, chống dịch
Cùng với sự quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, giảm tối đa thời gian, thành phần hồ sơ, đột phá lớn nhất trong cải cách hành chính của thành phố Hà Nội thời gian qua là quyết liệt ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết công việc, thủ tục hành chính, làm thay đổi mạnh mẽ nhận thức của cán bộ, công chức và người dân. Thành phố đã ban hành 22 danh mục cơ sở dữ liệu; Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 87/2020/NĐ-CP, ngày 28-7-2020 của Chính phủ, quy định về cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến trên địa bàn thành phố Hà Nội; Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, phát triển chính quyền số và bảo đảm an toàn thông tin mạng thành phố Hà Nội năm 2021; Kế hoạch Phát triển hạ tầng Bưu chính - Viễn thông phục vụ Chương trình chuyển đổi số thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030…
Để tạo nền tảng phát triển chính quyền điện tử, chính quyền số, ngày 6-9-2021, Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt Kiến trúc Chính quyền điện tử thành phố Hà Nội - xây dựng theo Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 2.0 với tầm nhìn “Đến năm 2025, hoàn thiện nền tảng Chính quyền điện tử Hà Nội, đưa thành phố Hà Nội dẫn đầu cả nước và xếp thứ hạng cao trong khu vực về phát triển chính quyền điện tử, tạo tiền đề phát triển chính quyền số, thành phố Hà Nội phát triển nhanh và bền vững theo hướng đô thị xanh, thành phố thông minh, hiện đại, có sức cạnh tranh cao trong nước và khu vực”. Đồng thời, thành phố đã ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo xây dựng chính quyền điện tử thành phố Hà Nội để bảo đảm công tác lãnh đạo, điều hành hoạt động xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số thông suốt, liên tục, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của chính quyền điện tử, chính quyền số.
Trước diễn biến phức tạp của dịch COVID-19, Hà Nội tiếp tục tăng cường triển khai mở rộng hệ thống họp trực tuyến từ thành phố đến tất các điểm cầu trực tuyến tại các sở và cơ quan tương đương sở; 30 quận, huyện, thị xã và 579 xã, phường, thị trấn trên địa bàn. Thành phố đã hoàn thành đưa vào khai thác, sử dụng, triển khai lắp đặt các thiết bị màn hình cảm ứng, trang thiết bị công nghệ thông tin, camera giám sát để tuyên truyền và hỗ trợ người dân sử dụng dịch vụ công trực tuyến, phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại các khu chung cư, nhà văn hóa thôn, tổ dân phố tại các quận, huyện, như Long Biên, Cầu Giấy, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm, Đống Đa, Thanh Xuân, Hoài Đức, Đông Anh, Quốc Oai, Thanh Trì, Hoàng Mai...
Bên cạnh các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu cốt lõi như dân cư, doanh nghiệp, bảo hiểm... được duy trì, khai thác hiệu quả, thành phố đã ban hành các văn bản, kế hoạch để khuyến khích, định hướng người dân, tổ chức và doanh nghiệp đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trên địa bàn; xây dựng, phát triển thương mại điện tử; triển khai hóa đơn điện tử, biên lai điện tử...
Đặc biệt, mặc dù gặp nhiều khó khăn do diễn biến phức tạp của dịch COVID-19 nhưng thành phố đã kịp thời chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng đối tượng khai báo y tế điện tử phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 thông qua các ứng dụng “Vietnam Health Declaration”, “Bluezone”, “NCovi”… cài đặt trên diện thoại thông minh; thực hiện tiếp nhận thủ tục hành chính trực tuyến tại Cổng dịch vụ trực tuyến của thành phố, Cổng dịch vụ công quốc gia, phần mềm quản lý doanh nghiệp và hộ cá thể đối với các thủ tục hành chính đã triển khai dịch vụ công mức độ 3, mức độ 4 và qua hệ thống bưu chính công ích.
Hiện nay, thành phố đã triển khai xuyên suốt tất cả các nền tảng của Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các tỉnh, thành phố thực hiện, trong đó có 3 nền tảng chính là: Nền tảng khai báo y tế điện tử và quản lý thông tin người ra vào địa điểm công cộng bằng mã vuông QR code; nền tảng hỗ trợ lấy mẫu và trả kết quả xét nghiệm theo hình thức điện tử trực tuyến và nền tảng quản lý tiêm chủng COVID-19... Ngoài ra, thành phố đã phát triển thêm các phần mềm quản lý F0, F1 để phân luồng tuyến các bệnh nhân F0 và khi F1 trở thành F0 sẽ được phân luồng vào các bệnh viện điều trị cho phù hợp; đồng thời triển khai các hệ thống phần mềm giải đáp kiến nghị của công dân qua Tổng đài 1022.
Thành phố tiếp tục duy trì Cổng Dịch vụ công thành phố và các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 dùng chung của thành phố; tiếp tục triển khai cung cấp cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp 1.685 thủ tục hành chính (gồm các dịch vụ công trực tuyến của bộ, ngành và các đơn vị tự triển khai), trong đó dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 là 1.217 thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 là 468 thủ tục hành chính.
Việc giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến các cấp trên thành phố thực hiện tập trung tại Hệ thống một cửa điện tử thành phố dùng chung 3 cấp và các hệ thống thông tin chuyên ngành dùng chung (lĩnh vực giáo dục, y tế). Hà Nội cũng đã tích hợp 444 dịch vụ công trực tuyến lên Cổng Dịch vụ công quốc gia theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Hà Nội nỗ lực thực hiện các giải pháp đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, phấn đấu đạt và vượt các chỉ tiêu của cả năm 2021. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của thành phố là tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử; thực hiện nghiêm túc việc kết nối, liên thông gửi, nhận văn bản điện tử và xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng, tiến tới bảo đảm công tác gửi nhận văn bản điện tử liên thông giữa 4 cấp hành chính.
Ứng dụng công nghệ thông tin vẫn chưa tương xứng với tiềm năng
Mặc dù có nhiều nỗ lực và đạt được kết quả đáng mừng nhưng việc phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin tại Hà Nội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của thành phố, vẫn còn một số hạn chế. Một số hệ thống thông tin mới chỉ phát triển theo chiều rộng, triển khai còn rời rạc, nhỏ lẻ, chưa có tính tổng thể, đồng bộ; vẫn thiếu các cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chính quyền điện tử; chưa có cơ chế xác thực hồ sơ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 (các cơ sở cốt lõi chuyên ngành chưa hoàn thiện đầy đủ, kết nối, chia sẻ dữ liệu từ chính phủ đến địa phương); chưa có chuyên gia giỏi về công nghệ thông tin (chuyên gia an toàn thông tin làm việc trong các cơ quan của thành phố)…
Dù tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 trên địa bàn Hà Nội cao hơn so với cả nước, nhưng phần lớn người dân khi sử dụng các dịch vụ công trực tuyến vẫn phải đến bộ phận một cửa và cần sự hỗ trợ sử dụng của cán bộ, công chức. Tỷ lệ người dân sử dụng các dịch vụ này tại nhà chưa cao. Chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ hội nhập. Vì thế, cần triển khai xây dựng hạ tầng thông tin văn minh, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực, như giáo dục, y tế..., với mục tiêu là phục vụ người dân, doanh nghiệp một cách nhanh chóng, giảm phiền hà.
Tạo động lực đột phá trong xây dựng thành phố thông minh
Nhằm phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những tồn tại, hạn chế đã được nhận diện, thời gian tới, Hà Nội cần tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng chính quyền điện tử gắn với phát triển các dịch vụ đô thị thông minh, trên cơ sở lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, lấy sự hài lòng của cá nhân, tổ chức là thước đo quan trọng trong phát triển chính quyền điện tử; chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, hướng tới chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số. Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, phát huy vai trò tham mưu, phối hợp trong xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, bởi nếu không xây dựng cơ sở dữ liệu của từng ngành, từng đơn vị, thì không có dữ liệu chung của thành phố và cũng không chia sẻ được thông tin trong xây dựng chính quyền điện tử và thành phố thông minh. Trong quá trình tham mưu, triển khai ứng dụng công nghệ thông tin, phải thường xuyên so sánh, đối chiếu với các thành phố, các quốc gia khác, từ đó có định hướng đầu tư, tránh lãng phí các nguồn lực.
Hai là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cơ quan nhà nước ở thành phố Hà Nội, để thực hiện thành công khâu “đột phá về cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư”. Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, công nghệ số trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển. Hiện đại hóa hạ tầng thông tin và truyền thông, như hoàn thiện, vận hành hiệu quả Trung tâm điều hành thông minh, Trung tâm dữ liệu của thành phố, kết nối đồng bộ, liên thông các cơ sở dữ liệu về dân cư, cán bộ, đất đai, hạ tầng kỹ thuật, môi trường, năng lượng… cơ bản hoàn thành xây dựng chính quyền điện tử của thành phố trước năm 2025, hướng tới hình thành chính quyền số thành phố Hà Nội. Phấn đấu đạt 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, nâng cao tỷ lệ người dân và doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công trực tuyến; phát triển nhanh công nghiệp công nghệ thông tin; gia tăng hàm lượng tri thức của sản phẩm phần mềm, nội dung số; đào tạo nhân lực phục vụ cho công nghệ thông tin.
Ba là, hoàn thiện cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số. Hiện đại hóa, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội. Chủ động tham gia và tận dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nâng cao năng suất lao động, phát triển các ngành công nghiệp mới có lợi thế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Chú trọng phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa. Xây dựng Chiến lược chuyển đổi số đưa Hà Nội sớm trở thành trung tâm về an toàn, an ninh mạng, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn của khu vực ASEAN. Phấn đấu đến năm 2025, xây dựng Hà Nội thành trung tâm thương mại lớn về giao thương và kinh tế của cả nước, khu vực Đông Nam Á.
Bốn là, bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đáp ứng yêu cầu triển khai chính quyền điện tử tại địa phương. Tăng cường phổ cập kiến thức công nghệ thông tin trong xã hội (đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa), góp phần nâng cao dân trí, giúp người dân tiếp cận với các ứng dụng phổ cập và đem lại những lợi ích hữu hiệu cho người dân. Nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng về chuyển đổi số, phát triển chính quyền số cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực công nghệ thông tin, bảo đảm nhân lực cho nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, làm chủ và từng bước sáng tạo ra công nghệ cho chế tạo sản phẩm, dịch vụ mới./.
Đẩy mạnh hoạt động của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, góp phần phát triển văn hóa, con người Thủ đô trong bối cảnh mới  (10/08/2021)
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong lực lượng vũ trang Thủ đô: Những kết quả nổi bật và phương hướng, giải pháp thời gian tới  (02/08/2021)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Quản lý văn phòng đại diện của các cơ quan báo chí tại khu vực miền Trung hiện nay
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay