Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò tích cực và đóng góp quan trọng vì một nền kinh tế ASEAN hội nhập, gắn kết, tăng trưởng cao và phát triển bền vững
TCCS - Trong bức tranh phát triển chung của ASEAN nửa thế kỷ qua, hợp tác kinh tế ASEAN là những mảng màu rực rỡ và sống động nhất, với những kết quả cụ thể và thiết thực. Từ một tổ chức đặt ưu tiên cho mục tiêu chính trị, chưa bàn thảo đến hợp tác kinh tế(1), đến nay ASEAN trở thành một liên kết kinh tế mạnh mẽ với mức độ tự do hóa cao trong lĩnh vực thương mại hàng hóa, thương mại - dịch vụ và đầu tư, đồng thời cũng là một nền kinh tế lớn, trung tâm thương mại quan trọng trên bản đồ kinh tế toàn cầu, vươn lên thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 3 ở châu Á, với tổng sản phẩm khối nội đạt 2.550 tỷ USD trong năm 2016. Với đà tăng trưởng hiện nay, đến năm 2050, ASEAN được dự báo sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 toàn cầu.
Thúc đẩy hợp tác kinh tế ASEAN với một mô hình liên kết cao và toàn diện
Năm 2017 là một cột mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) với sự kiện kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Hiệp hội. Kể từ khi Tuyên bố Băng Cốc được các bộ trưởng ngoại giao của 5 nước Đông Nam Á là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin ký kết vào ngày 08-8-1967, ASEAN đã có những bước chuyển mình vượt bậc trong thời gian qua. Từ một khu vực bị chia rẽ bởi các quan điểm chính trị khác nhau, ASEAN đã trở thành một khối thống nhất, đoàn kết, gắn bó và hữu nghị với sự tham gia của cả 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Từ những quốc gia phải đối mặt với đói nghèo, đến nay ASEAN đã trở thành một Cộng đồng phồn vinh với các quốc gia thành viên phát triển nhanh chóng, được ví là những “con rồng”, “con hổ” kinh tế của khu vực.
Là một trong ba trụ cột của Cộng đồng ASEAN, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) chính thức được thành lập vào ngày 31-12-2015, thể hiện quyết tâm chính trị và nỗ lực cao nhất từ tất cả các quốc gia thành viên trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế ASEAN với một mô hình liên kết cao và toàn diện, là điểm hội tụ của các chính sách ưu việt và cầu thị, các quy định thuận lợi nhất cho sản xuất, kinh doanh trong khu vực. AEC đặt mục tiêu đưa ASEAN trở thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất với sức cạnh tranh cao, phát triển kinh tế cân bằng và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Những kết quả cụ thể về triển khai xây dựng AEC:
1- Một thị trường chung và cơ sở sản xuất thống nhất
ASEAN thúc đẩy xây dựng thị trường chung thông qua sự tự do di chuyển của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động tay nghề.
- Về tự do hóa thương mại hàng hóa, trên cơ sở Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đến hết năm 2016 ASEAN đã xóa bỏ thuế nhập khẩu với 96,01% tổng số dòng thuế (tỷ lệ xóa bỏ thuế nhập khẩu của các nước ASEAN6, gồm Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin là 99,2%; của các nước Việt Nam, Lào, Mi-an-ma và Cam-pu-chia (CLMV) là 90,9%). Theo kế hoạch đến năm 2018, tỷ lệ xóa bỏ thuế nhập khẩu của các nước ASEAN6, CLMV và tỷ lệ trung bình ASEAN sẽ lần lượt là 99,2%, 97,81% và 98,67%.
- Về tự do hóa thương mại - dịch vụ, trong khuôn khổ Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN (AFAS), ASEAN đã có 9/10 gói cam kết về thương mại - dịch vụ chung, 7 gói cam kết về dịch vụ tài chính, 9 gói cam kết về dịch vụ vận tải hàng không với phạm vi rộng hơn và mức độ sâu hơn so với các cam kết trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
- Về tự do lưu chuyển dòng đầu tư, các thành viên ASEAN đã nỗ lực loại bỏ dần các biện pháp bảo lưu trong Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) được ký vào năm 2009, hướng tới mục tiêu xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn với các biện pháp, sáng kiến xúc tiến, thúc đẩy, bảo hộ và thuận lợi hóa đầu tư.
- Về tự do hơn nữa lưu chuyển của dòng vốn, các thành viên ASEAN đã hoàn thành xây dựng Khuôn khổ ASEAN về hội nhập ngân hàng với các biện pháp hài hòa hóa quy định và tiêu chuẩn ngân hàng, tăng cường kết nối các thị trường chứng khoán trong và ngoài khu vực.
- Về tự do lưu chuyển của lao động có kỹ năng, ASEAN đã ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau về bằng cấp và tư cách hành nghề đối với 8 ngành dịch vụ (điều dưỡng, hành nghề y, nha khoa, kế toán, kỹ sư, kiến trúc, khảo sát và du lịch), thông qua Khung tham chiếu trình độ ASEAN (AQRF) và thực thi Hiệp định ASEAN về Di chuyển thể nhân (MNP) nhằm tạo ra cơ chế hiệu quả, hướng tới tự do lưu thông của lao động có tay nghề trong ASEAN.
2- Một khu vực kinh tế có khả năng cạnh tranh cao
Để tối ưu hóa lợi ích từ cơ hội do mối liên kết về thương mại, đầu tư mở ra, các nước ASEAN đã và đang triển khai tích cực các chính sách và biện pháp để đưa ASEAN thành một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao trên cơ sở xây dựng chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, tăng cường hợp tác về thương mại điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng, thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, áp dụng thực tiễn sản xuất tốt nhất và tiêu chuẩn quốc tế.
3- Một ASEAN phát triển kinh tế đồng đều
Thực hiện chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), ASEAN đã xây dựng các kế hoạch hành động chiến lược phát triển MSMEs cho từng giai đoạn; triển khai công tác thu hẹp khoảng cách phát triển thông qua Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI) với mục tiêu thúc đẩy liên kết kinh tế ASEAN thông qua việc các nước ASEAN-6 hỗ trợ các nước CLMV hội nhập khu vực và thu hẹp khoảng cách phát triển, hướng tới một ASEAN thống nhất và phát triển đồng đều (đến nay đã có 2 Kế hoạch công tác IAI được triển khai với tổng số 615 dự án trị giá 103,1 triệu USD, Kế hoạch công tác giai đoạn III được thông qua tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 29).
4- Hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu
Song song với việc tích cực hội nhập nội khối, các thành viên ASEAN tiếp tục xây dựng một ASEAN mở cửa, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua việc thực thi và nâng cấp 5 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký với 6 đối tác là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân; triển khai đàm phán FTA ASEAN - Hồng Công (đã kết thúc đàm phán vào cuối tháng 7-2017) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 đối tác trên. Với các cam kết tự do hóa thuế quan, bảo hộ đầu tư nước ngoài, thực thi quyền sở hữu trí tuệ, các FTA này giúp ASEAN đẩy mạnh hơn nữa mở cửa với thế giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, nâng cao sức cạnh tranh, đồng thời làm cho môi trường đầu tư ASEAN ngày càng trở nên hấp dẫn hơn, thúc đẩy các doanh nghiệp trong ASEAN tham gia sâu vào các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.
Quan hệ hợp tác kinh tế với các các đối tác quan trọng khác, như Hoa Kỳ, EU, Ca-na-đa, Nga cũng được ASEAN triển khai tích cực thông qua các sáng kiến, các chương trình hành động cụ thể, tập trung vào các nội dung các bên cùng quan tâm, như kinh tế thương mại, đầu tư quốc tế, phát triển năng lực.
Những đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy liên kết kinh tế ASEAN
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN vào ngày 28-7-1995. Sau hơn 22 năm tham gia ASEAN, từ những bỡ ngỡ ban đầu, Việt Nam đã tham gia sâu rộng, toàn diện vào tất cả các lĩnh vực hợp tác, trong đó có hợp tác kinh tế, theo phương châm “chủ động, tích cực và có trách nhiệm”, đồng thời có những đóng góp vô cùng quan trọng cho sự vươn lên ngày càng lớn mạnh của hợp tác kinh tế ASEAN thời gian qua.
ASEAN là động lực quan trọng giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững thời gian qua với vị trí đối tác thương mại đứng thứ 2 của Việt Nam (sau Trung Quốc), tốc độ tăng trưởng bình quân 14,5%/năm trong thập niên qua. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu Việt Nam - ASEAN tăng gấp 7 lần sau hơn 22 năm trở thành thành viên của khối này, từ khoảng 5,8 tỷ USD năm 1996 lên 41,49 tỷ USD năm 2016, chiếm tỷ trọng 11,8% tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của cả nước. Trong đó, xuất khẩu từ Việt Nam sang các nước ASEAN năm 2016 đạt gần 17,45 tỷ USD, tăng 6,8 lần với tốc độ tăng bình quân 10%/năm. Nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam năm 2016 đạt 24,04 tỷ USD, tăng 7,2 lần so với năm 1996. Bên cạnh đó, với các FTA được ký kết trong khuôn khổ ASEAN, giá nhân công cạnh tranh và vị trí địa lý thuận lợi, Việt Nam cũng là điểm đến hấp dẫn của các doanh nghiệp ASEAN. Đầu tư từ các nước ASEAN vào Việt Nam năm 2016 chiếm 45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, tăng khoảng 2,5 lần so với cùng kỳ năm 2015.
Việt Nam tích cực tham gia quá trình đề ra phương hướng phát triển và hình thành các quyết sách lớn về hợp tác kinh tế ASEAN và các sáng kiến cụ thể trong hợp tác kinh tế ASEAN, như Tầm nhìn ASEAN 2020 và Kế hoạch triển khai AEC, Lộ trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (2009 - 2015), Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025 và Kế hoạch tổng thể AEC, kế hoạch hành động chiến lược trong các lĩnh vực chuyên ngành nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC 2025, các kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN và các kế hoạch công tác sáng kiến hội nhập ASEAN.
Là một nước có dân số lớn thứ 3 và diện tích lớn thứ 4 trong ASEAN, có vị trí địa - kinh tế quan trọng, là một hình mẫu của phát triển kinh tế ổn định và bền vững trong khu vực, Việt Nam luôn phát huy vai trò là một trong những thành viên tích cực trong ASEAN về thúc đẩy hợp tác kinh tế nội khối, ngoại khối và thu được những kết quả tích cực. Việt Nam luôn nằm trong nhóm nước có tỷ lệ thực hiện cao nhất trong quá trình thực hiện Kế hoạch tổng thể Cộng đồng Kinh tế ASEAN 2015(2). Là nước điều phối hợp tác kinh tế ASEAN - EU, Việt Nam đã đóng góp tích cực vào thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại hai bên, thúc đẩy khả năng tái khởi động đàm phán FTA ASEAN - EU. Việt Nam cũng được các quốc gia ghi nhận trong vai trò chủ tọa một số nhóm công tác trong khuôn khổ ASEAN và hợp tác giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối.
Vai trò của Việt Nam còn được ghi nhận và đánh giá cao trong dẫn dắt các nước thành viên mới của ASEAN (CLMV) trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển và bảo đảm việc các quốc gia này được hưởng đầy đủ các ưu đãi, hỗ trợ từ các nước ASEAN-6 và đối tác trong quá trình tham gia liên kết kinh tế ASEAN thời gian qua. Việt Nam đã chủ động đề xuất và thúc đẩy các nước ASEAN thông qua Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển (năm 2001) để đề ra các phương hướng triển khai Sáng kiến hội nhập ASEAN. Với vị trí Chủ tịch Nhóm đặc trách về kết nối ASEAN, năm 2010, Việt Nam đã cùng các nước thành viên khác hoàn tất xây dựng Kế hoạch tổng thể về kết nối ASEAN 2010, định hình sự liên kết chặt chẽ về hạ tầng giao thông, thể chế và con người, là nền tảng cho sự kết nối trong khu vực Đông Á và khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Sau 50 năm hình thành và phát triển của ASEAN, với cột mốc quan trọng là sự hình thành của AEC vào cuối năm 2015, ASEAN đã và đang tiếp tục phải vượt qua quãng đường rất dài để xây dựng AEC phát triển toàn diện và vững mạnh. Quãng đường phát triển đó đã được thử thách bởi những khó khăn trong quá khứ, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009, và hiện tại là trào lưu chống toàn cầu hóa, đa phương hóa hợp tác kinh tế hay xu hướng bảo hộ,... Hơn lúc nào hết, khu vực châu Á, mà cụ thể là ASEAN, cần phát huy vị trí “đầu tàu” trong việc thúc đẩy tự do hóa thương mại, liên kết kinh tế khu vực; là hình mẫu cho các khuôn khổ hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu.
Để làm được điều đó, các nước thành viên ASEAN cần tiếp tục duy trì sự đoàn kết và kiên định đi theo con đường hội nhập kinh tế đã lựa chọn trong nửa thế kỷ qua, khẳng định vai trò ngày càng lớn mạnh của ASEAN trên bản đồ kinh tế toàn cầu. Trên tinh thần “chủ động, tích cực và có trách nhiệm”, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò là một thành viên tích cực trong ASEAN và nỗ lực đóng góp vì một nền kinh tế ASEAN hội nhập, gắn kết, tăng trưởng cao và phát triển bền vững. /.
------------------------------------------------------------------------
(1) Trong suốt 25 năm, từ năm 1967 đến năm 1992, ASEAN không thực sự chú trọng tới hợp tác kinh tế. Trong khi ký kết hàng loạt văn kiện tăng cường hợp tác an ninh (ZOPFAN năm 1971, TAC năm 1976, SEANWFZ năm 1984, DOC năm 1992), ASEAN chỉ tiến hành một số hoạt động hợp tác kinh tế khiêm tốn, như thành lập Phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN (ASEAN CCI) nhằm tham khảo ý kiến của khu vực tư nhân trong hợp tác kinh tế ASEAN năm 1972, thành lập Ủy ban Giơ-ne-vơ của ASEAN để phối hợp chính sách chung của ASEAN tại các diễn đàn đa phương năm 1973, thông qua Bản tuyên bố về Hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Ba-li I), trong đó có đưa ra một số chương trình hành động để tăng cường hợp tác kinh tế năm 1976 và ký Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư ASEAN năm 1987
(2) Theo Biểu đánh giá xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC Scorecard) năm 2015, tỷ lệ thực thi các biện pháp ưu tiên của Việt Nam là 95,5%, đứng thứ 2 sau Xin-ga-po
Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại năm 2017  (01/12/2017)
Thành phố Hồ Chí Minh: Kinh tế tiếp tục phát triển ổn định và có những lĩnh vực tăng trưởng đáng kể  (01/12/2017)
Việt Nam coi trọng quan hệ song phương với Australia  (30/11/2017)
Công bố quyết định của Bộ Chính trị về công tác cán bộ  (30/11/2017)
- Một số vấn đề cơ bản về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền
- Việt Nam chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thúc đẩy đối ngoại quốc phòng, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng các biện pháp hòa bình
- Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
- Bảo vệ, phát huy giá trị tài nguyên di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch bền vững
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nông nghiệp và sự vận dụng của Đảng đối với vấn đề bảo đảm an ninh lương thực ở Việt Nam hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên