TCCS - Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến cơ sở có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Vấn đề quản trị bản thân của họ trong cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” có quan hệ trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị, đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng kiểm tra công tác ứng trực và chúc tết cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm số 2, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động_Nguồn: thanhnien.vn

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức - Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay

Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị là những người được nhân dân ủy thác, đại diện cho nhân dân trong các tổ chức công để thực thi chức trách, nhiệm vụ, vừa là người lãnh đạo, vừa là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Họ là những người trực tiếp tham mưu xây dựng, hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức triển khai chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật trên các lĩnh vực hoạt động của các bộ, ban, ngành, đoàn thể ở Trung ương và địa phương; đồng thời, cũng là người trực tiếp quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, người lao động thuộc thẩm quyền ở từng cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Đội ngũ các nhà lãnh đạo, quản lý có tầm quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến việc quản trị một tổ chức cũng như toàn bộ quốc gia. Sự ổn định và phát triển bền vững của mỗi tổ chức và quốc gia - dân tộc phụ thuộc rất lớn vào năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, được thể hiện qua tài năng, phẩm chất đạo đức của họ gắn với năng lực quản trị bản thân.

Trong phép trị nước của người xưa ở Phương Đông, Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức đối với bậc chính nhân quân tử, đề cao quản trị bản thân khi nhấn mạnh rằng trước hết phải “tu thân, tề gia” rồi mới “trị quốc, bình thiên hạ”. Bàn về vai trò của đạo đức và sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cán bộ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”(1). Theo Người, “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(2), “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”(3). Bởi vậy, Người luôn quan tâm tới việc quản trị bản thân của người cán bộ, nhất là chú trọng bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý dựa vào một hệ thống các giá trị kết hợp với một hệ tiêu chuẩn cụ thể hóa các giá trị này. Người đặt lên hàng đầu ba mối quan hệ cơ bản của một con người: Đối với mình, đối với người, đối với việc, “khiến cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc”, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Để xứng đáng và giữ vững vai trò cầm quyền, Đảng phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn để nâng cao năng lực cầm quyền. Đây là vấn đề có tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của Đảng; là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài và tất yếu trong quá trình tồn tại, phát triển và cầm quyền của Đảng. Trong Di chúc (năm 1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(4).

Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng được xác lập thông qua hai vấn đề cơ bản: Đường lối chính trịđội ngũ cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII (6-1997), “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã khẳng định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Tại nhiều nhiệm kỳ Đại hội và Hội nghị Trung ương, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về quản trị bản thân của người cán bộ, mà trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có đức, có tài, ngang tầm nhiệm vụ.

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bước vào giai đoạn phát triển mới, bên cạnh thuận lợi, thời cơ, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức đan xen. Trong đó có nguy cơ, thách thức từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tình trạng đó được Đảng ta xác định là “nguy hiểm khôn lường”, “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”(5). Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là sự quản trị bản thân kém hiệu quả của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp trong Đảng và hệ thống chính trị. 

Vì thế, một trong những yêu cầu cấp bách đặt ra trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu phát triển tổng quát: “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa(6). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đó, một yêu cầu hết sức quan trọng đặt ra cho mỗi cán bộ, đảng viên phải tự mình làm tốt việc quản trị bản thân gắn với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Nội dung quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý là sự tự giáo dục, tự rèn luyện, thường xuyên giữ gìn và nâng cao đạo đức cách mạng; tự tạo ra năng lực đề kháng và đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong và tác động chuyển hóa từ bên ngoài. Đó là những hoạt động mang tính tự giác, chủ động, nền nếp, thường xuyên của bản thân người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các mối quan hệ: Đối với mình, đối với công việcđối với người, gắn với các hoạt động xây dựng Đảng về đạo đức, bằng việc tự học tập, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được Đảng và nhân dân tin tưởng giao phó.

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức, cùng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ tạo thành một chỉnh thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Việc quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ thực sự có hiệu quả khi gắn chặt với các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các thành tố đó bảo đảm cho quá trình xây dựng, củng cố, phát triển đạo đức cách mạng của Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên có hiệu quả; góp phần quan trọng để Đảng xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có phẩm chất (gồm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống), năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; xứng đáng “là người lãnh đạo và là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức được thể hiện trên các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, người cán bộ cách mạng phải nâng cao năng lực tự chủ bản thân, ra sức tu dưỡng, rèn luyện và giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng được định hình thành chế độ tự giác, làm cho cán bộ luôn nghiêm khắc với chính mình.

Bàn về con người, C. Mác chỉ rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”(7). Con người luôn chịu sự chế ước bởi những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, trong đó có đạo đức, làm cho xã hội tồn tại và phát triển. Đạo đức là cái gốc của con người. Đạo đức luôn là sản phẩm của xã hội; gắn liền với nhân sinh quan và thế giới quan của con người. Trong xã hội có giai cấp, thì đạo đức bao giờ cũng mang tính giai cấp, bên cạnh những đặc trưng chung thì còn biểu hiện những khuôn phép và quy tắc đạo đức của một giai cấp nhất định - giai cấp thống trị trong xã hội.

C. Mác và Ph. Ăng-ghen là những nhà cách mạng tiêu biểu của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là những tấm gương ngời sáng xét về phương diện quản trị bản thân, làm chủ bản thân mình trong cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ để xác lập nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản thế giới.

Vận dụng và phát triển tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đã đưa vào quan niệm của mình những nội dung mới về đạo đức của con người nói chung, cũng như của người cách mạng nói riêng. Người khẳng định, đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản phải hoàn toàn phục tùng lợi ích đấu tranh của giai cấp vô sản, phải xuất phát “từ những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra”(8). Để hiện thực hóa lý tưởng của Đảng, người cán bộ phải “trung thành vô hạn đối với cách mạng”(9). Phẩm chất này luôn được V.I. Lê-nin ca ngợi và đánh giá cao ở những người chiến sĩ cách mạng vô sản.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tu dưỡng, rèn luyện, tự chủ bản thân theo những chuẩn mực đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Người cho rằng đạo đức cách mạng “không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”(10). Từ luận điểm quan trọng này của Người, có thể hiểu sự quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải được thể hiện trước hết và trên hết đó là sự toàn tâm, toàn ý, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng - “đó là điều chủ chốt nhất”, là đặt sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chính là sự phản ánh sinh động của “tu dưỡng đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Từ ý thức đề cao vị trí, vai trò của đạo đức, Người khẳng định, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng trước hết phải trau dồi đạo đức cách mạng, coi đó là một trong những điều kiện tiên quyết để trở thành người cách mạng chân chính. Tấm gương tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nghiêm cẩn của Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền cảm hứng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân noi theo, có sức lan tỏa, ảnh hưởng to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Thứ hai, tăng cường chế độ kỷ luật tự giác trong quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Quá trình xây dựng, kiến tạo chế độ xã hội mới luôn đòi hỏi Đảng cách mạng phải duy trì được kỷ luật nghiêm minh và tự giác. Sức mạnh của Đảng là ở tinh thần kỷ luật, ý thức tổ chức nghiêm minh, tự giác của đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác, trước hết đòi hỏi bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tự giác chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, lãnh đạo, sinh hoạt đảng. Kỷ luật nghiêm minh và tự giác còn đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nói và làm đúng nghị quyết của Đảng.

Đảng là một tổ chức chính trị gồm những người tự nguyện phấn đấu suốt đời cho lý tưởng cộng sản, cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tính nghiêm minh của kỷ luật đảng đòi hỏi mọi tổ chức đảng, mọi cán bộ của Đảng đều phải bình đẳng trước Điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước. Tính nghiêm minh, tự giác còn đòi hỏi ở cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gương mẫu trong cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi người cán bộ trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị.

Đảng phải giữ kỷ luật nghiêm minh từ trên xuống dưới, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thống nhất giữa tư tưởng và hành động. Mục đích của việc chấp hành và thi hành kỷ luật đảng là bảo đảm cho các tổ chức đảng và mọi cán bộ lãnh đạo, quản lý “Giữ gìn và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng” và “Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”(11).

Sự nêu gương của người cán bộ chính là việc thực hành quản trị bản thân để những giá trị của đạo đức và tài năng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được lan tỏa, dẫn dắt, truyền cảm hứng cho đồng chí, đồng nghiệp, cấp dưới..._Nguồn: baovephapluat.vn

Kỷ luật của Đảng bao gồm hai nội dung cơ bản: Một là, chấp hành kỷ luật của Đảng; hai là, thi hành kỷ luật trong Đảng. Giữa chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật đảng có mối quan hệ chặt chẽ. Trong quản trị bản thân, người cán bộ lãnh đạo, quản lý càng chấp hành kỷ luật của Đảng nghiêm túc, đầy đủ, tự giác bao nhiêu thì việc thi hành kỷ luật sẽ càng giảm đi bấy nhiêu và ngược lại. Xử lý mối quan hệ giữa chấp hành kỷ luật và thi hành kỷ luật đảng trong quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo chính là giải quyết mối quan hệ giữa “xây” và “chống”, trong đó, lấy “xây” làm mục tiêu lâu dài, là chính, nhưng khi người cán bộ có vi phạm thì phải cương quyết xem xét, xử lý công minh, chính xác, kịp thời theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Thứ ba, thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hành tự phê bình và phê bình, định hình cơ chế tự phát hiện lỗi, tự phòng ngừa, tự sửa lỗi và giúp nhau sửa lỗi đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt chú trọng đến tự phê bình và phê bình trong Đảng. Tự phê bình và phê bình là vấn đề mang tính nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của Đảng cách mạng. Đây là “quy luật phát triển” của Đảng, là “vũ khí sắc bén” trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Lý giải vì sao trong Đảng lại phải thực hành tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng.

Nhưng không vì thế mà kinh sợ. Ta đã thấy rõ những bệnh ấy thì ta tìm được cách chữa.

Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình(12).

Sức mạnh của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên là ở chỗ mạnh dạn tự phê bình và phê bình. Mục đích của tự phê bình và phê bình là để giúp nhau cùng tiến bộ; làm “cái ác” dần mất đi, “cái thiện” nảy nở, sinh sôi để làm việc tốt hơn. Tự phê bình và phê bình là “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”; mục đích của tự phê bình và phê bình còn nhằm tăng cường sức mạnh đoàn kết của Đảng. Từ đó, yêu cầu đặt ra trong quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức là phải tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên, nghiêm túc. Cùng với việc thực hành dân chủ thì “tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng”. Để tự phê bình và phê bình thực sự phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao trong quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, mỗi cán bộ và tổ chức đảng phải thực hành thường xuyên, nghiêm chỉnh; tự phê bình mình cũng như phê bình người khác một cách “triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”(13).

Cách thức, phương pháp tự phê bình và phê bình: Phải rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, thành thật, mục đích là cốt để sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, giúp nhau cùng tiến bộ; phải trên tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; thực hiện dân chủ từ trên xuống dưới. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu phải gương mẫu trong thực hành tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện lệch lạc trong tự phê bình và phê bình.

Thứ tư, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu trong quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý gắn với xây dựng Đảng về đạo đức.

Một trong những nội dung quan trọng của phương thức lãnh đạo của Đảng là thông qua sự nêu gương của đội ngũ cán bộ. Chính sự nêu gương về đạo đức của đội ngũ này đóng vai trò lớn đối với uy tín, sức mạnh của Đảng, đến hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng. Cán bộ lãnh đạo, quản lý giữ chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu về đạo đức, lối sống. Nhân dân tin Đảng, tự nguyện đi theo sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ sự ổn định và bền vững của chế độ trước hết chính là thông qua hình ảnh, uy tín của người cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Ngược lại, nếu đội ngũ này không gương mẫu, không tiêu biểu cho đạo đức, thanh danh của Đảng, rơi vào suy thoái về đạo đức, lối sống, tha hóa, biến chất thì sẽ không chỉ làm mất uy tín của bản thân họ, mà còn làm suy giảm, thậm chí đánh mất niềm tin của quần chúng vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sự nêu gương của người cán bộ chính là việc thực hành quản trị bản thân để những giá trị của đạo đức và tài năng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý được lan tỏa, dẫn dắt, truyền cảm hứng cho đồng chí, đồng nghiệp, của cấp dưới và quần chúng nhân dân. Trong thực tiễn, việc nêu gương của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị là “mệnh lệnh không lời” để thuyết phục cấp dưới noi theo. Người đứng đầu liêm chính, nghiêm túc chấp hành chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì mới giữ được kỷ luật, kỷ cương của tổ chức, cơ quan, đơn vị; cấp dưới không thể tự tung, tự tác, làm bừa, làm ẩu. Ngược lại, lời nói của người đứng đầu sẽ là vô ích, nếu bản thân không nêu gương, nói một đằng, làm một nẻo, nói mà không làm hoặc nói nhiều, làm ít.

Thứ năm, kiểm soát quyền lực, đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, làm cho quyền luôn ràng buộc với trách nhiệm, tự quản bản thân mỗi cán bộ đặt trong cơ chế tự kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.

Trở thành đảng cầm quyền, thực thi quyền lực chính trị trong bối cảnh đã có bộ máy quyền lực nhà nước, thì kiểm soát quyền lực có vai trò cực kỳ quan trọng trong phòng, chống sự tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quyền lực của Đảng, của bộ máy nhà nước không phải là quyền lực tự thân, mà là do nhân dân ủy quyền, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Vì vậy, nhân dân có quyền đòi hỏi chính đáng, có nhu cầu tự nhiên và tất nhiên là phải kiểm soát được quyền lực để sao cho quyền lực đó không bị biến dạng, không bị tha hóa, không bị lạm quyền, lộng quyền, khiến cho quyền lực vận hành cho mục đích tối thượng là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Cùng với phòng, chống sự tha hóa quyền lực như một phương thức hữu hiệu để quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý, thì trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, với trọng tâm là xây dựng Đảng về đạo đức, đòi hỏi phải có phương thức giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực, đi đôi với phòng, chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên là giặc “nội xâm”, một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng. Người nói: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”(15). Vì vậy, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vừa là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cán bộ, đảng viên, của toàn Đảng, toàn dân.

Đảng đề cao vai trò đội ngũ cán bộ - “cái gốc của mọi công việc”; đồng thời, đòi hỏi ở họ sự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; bên cạnh đó, phải luôn chú ý để người cán bộ kịp thời “sửa đổi những khuyết điểm khắp các phương diện”, “đề phòng hủ hóa” lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là “dĩ công dinh tư”, thậm chí “dùng pháp công để báo thù tư... Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động”(16).

Quản trị bản thân của người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải gắn liền với bài trừ chủ nghĩa cá nhân, vì “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân(17); “Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng phải tiêu diệt nó”(18).

Trong điều kiện Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, cán bộ, đảng viên được giao phó, nắm các chức vụ, quyền hạn trong bộ máy lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, các lĩnh vực; hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ có ảnh hưởng quyết định đến toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị, đến sự trong sạch, vững mạnh và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và đồng thời, nó quyết định tới sự thành bại của cách mạng. Do vậy, yêu cầu quan trọng và bức thiết hiện nay là phải lãnh đạo xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị thực sự có đức, có tài, đủ phẩm chất và năng lực, ngang tầm nhiệm vụ, phải có cơ chế, thiết chế để đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có năng lực tự quản trị bản thân một cách hiệu quả trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.

------------------

(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 292 - 293, 309, 313
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 622
(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 23
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 35 - 36
(7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 11
(8) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 41, tr. 367
(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 38, tr. 94
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 292
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 242
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 301 – 302
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 272
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 278
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 20
(17), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 609, 611