Vấn đề di cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
TCCS - Ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, nhất là ở 3 tỉnh Lạng Sơn, Hà Giang, Sơn La, di cư của đồng bào dân tộc thiểu số giúp phân bố lại dân cư, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, quá trình này cũng có những hạn chế nhất định. Chính vì vậy, cần có những giải pháp phù hợp để giúp bảo đảm ổn định đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Các loại hình di cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Thứ nhất, di cư theo kế hoạch (di cư có tổ chức, do ảnh hưởng của các dự án, thường là di chuyển hộ gia đình đi khỏi nơi ở cũ).
Hiện nay, những phong trào hay chủ trương “đi kinh tế mới” (di cư theo kế hoạch) như những năm 60, 70, 80 của thế kỷ XX không còn, mà phần lớn là di cư trong nội tỉnh, nội huyện. Loại hình di cư này diễn ra trong một số trường hợp sau:
1- Di cư để chuẩn bị giải phóng mặt bằng cho các dự án (các công trình thủy điện, các khu công nghiệp...): Địa bàn tỉnh Lạng Sơn thời gian qua chủ yếu là di cư ở Trường Bắn quốc gia 1 nằm giữa hai địa bàn tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn (trên địa bàn huyện Lộc Bình). Tổng số hộ di cư tại dự án này của tỉnh Lạng Sơn là 111 hộ (638 người). Điểm đến của loại hình di cư này có hai loại: Một là, trường hợp các hộ dân chấp nhận tái định cư theo bố trí của Nhà nước tại các vùng trống có thể định cư xen ghép, được chính quyền quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng. Hai là, trường hợp các hộ dân không nhận tái định cư theo bố trí của Nhà nước, tự nguyện tìm kiếm nơi ở mới sau khi nhận một khoản kinh phí đền bù theo quy định. Nhóm này chủ yếu đi vào vùng Tây Nguyên mua đất rẫy để sản xuất. Họ thường đi theo từng nhóm gia đình và cũng nhận thêm sự hỗ trợ từ chính quyền sở tại về kết cấu hạ tầng. Khoản hỗ trợ này được trao đổi giữa chính quyền nơi đi và nơi đến. Việc liên lạc, duy trì thông tin đời sống của nhóm di cư này cho đến nay vẫn được chính quyền nơi đi duy trì. Để phát huy lợi thế, phát triển các dự án thủy điện, tỉnh Sơn La đã di dời một số lượng lớn hộ dân để xây dựng đại thủy điện Hòa Bình, Sơn La, các thủy điện nhỏ như Thủy điện Nậm Chiến 1-2, Thủy điện Huổi Quảng, Mường Bú, Sập Vạt, Keo Bắc... (với 49 thủy điện hiện có). Di cư diện tái định cư liên quan đến các công trình thủy điện thuộc trách nhiệm chính quyền cũng như phía doanh nghiệp (thủy điện). Các cơ quan này phải thực hiện đầy đủ các chính sách tái định cư theo quy định trên nguyên tắc “nơi đến phải có cuộc sống cao hơn hoặc bằng nơi cũ”.
2- Di cư ra khỏi vùng rừng đặc dụng, di cư do thiên tai, môi trường: Đây là loại hình di cư bị động từ cả phía chính quyền và người dân. Để bảo vệ các khu rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng bảo tồn, chính quyền đã tổ chức cho người dân cư trú, sản xuất trong khu vực di cư ra nơi ở mới. Nhìn chung, loại hình di cư này không nhiều so với các loại hình khác. Trong một số trường hợp, khu vực, nhu cầu di cư chủ yếu xuất phát từ người dân và họ chủ động đề xuất chính quyền hỗ trợ. Đối với di cư tránh thiên tai ở vùng có nguy cơ sạt lở hoặc di cư đi ra khỏi rừng đặc dụng, chính quyền để người dân tự chọn nơi ở, hỗ trợ di dời. Trong quá trình cư trú sau này, chính quyền nơi đi thường xuyên có trao đổi với nơi nhập cư, thậm chí thường xuyên cử cán bộ đến nơi ở của dân (kể cả vào vùng Tây Nguyên) để nắm thông tin, quan tâm và có những hỗ trợ cần thiết.
Thứ hai, di cư tự do (đi vào các vùng kinh tế mới như Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).
Đây là những người di cư không nằm trong chương trình di cư của chính quyền, do người di cư tự quyết định từ việc lựa chọn địa bàn nhập cư, đến trang trải mọi phí tổn di chuyển, tìm việc làm...
Di cư tự do vốn là vấn đề nóng những năm 90 trở về trước của thế kỷ XX, chủ yếu là việc di cư của đồng bào Tày, Nùng, Thái, Hmông, Dao... Tuy nhiên, loại hình di cư này trong 5 năm trở lại đây xuất hiện không đáng kể. Địa phương có di cư tự do nhiều nhất là tỉnh Hà Giang: Ở Đồng Văn trong 10 năm (2007 - 2017) có 36 hộ (152 người) di cư tự do vào Tây Nguyên, thì có 20 hộ (76 người) đã hồi cư; ở Hoàng Su Phì trong giai đoạn 2013 - 2017 có 56 hộ (233 người) di cư tự do thì có 20 hộ (81 người) hồi cư.
Thứ ba, di cư lao động (di cư tạm thời để tham gia lao động tại một địa bàn khác hoặc chỉ di cư theo thời vụ, nhà cửa, cơ sở vật chất ở quê vẫn giữ để quay về sinh sống lâu dài).
Có 2 loại di cư lao động chủ yếu đối với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) ở các tỉnh miền núi phía Bắc.
1- Di cư lao động đến các doanh nghiệp công nghiệp trong nước (nhiều nhất là di cư đến các tỉnh Bắc Ninh và Thái Nguyên - nơi tập trung các khu công nghiệp. Đối tượng chủ yếu của loại hình di cư này là thanh niên trẻ, sau khi học hết phổ thông đi làm công nhân. Nhóm di cư này đang đứng trước một thách thức là cường độ làm việc cao, đòi hỏi có sức khỏe, kỷ luật lao động...
Dòng di cư lao động, của đồng bào DTTS các tỉnh miền núi phía Bắc không nhiều và phần lớn là bỏ việc sau một thời gian thử việc hoặc đã làm nhưng phải bỏ về, bởi không chịu được áp lực công việc, tác phong làm việc công nghiệp. Đồng bào DTTS thường phải tham dự đầy đủ các công việc của quê hương, của gia đình, dòng tộc, thôn bản. Do vậy, khi có các công việc này, họ thường xin về hoặc bỏ về để tham dự. Điều này là khó chấp nhận đối với các doanh nghiệp sản xuất theo hệ thống dây chuyền.
Các cấp ủy, chính quyền địa phương rất quan tâm đến dòng di cư lao động này, bởi đây được coi là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo bền vững của địa phương. Để tạo thêm động lực thúc đẩy đối với những người di cư lao động này, tỉnh Hà Giang đã có phương án hỗ trợ cho người lao động đi tham gia xuất khẩu lao động và làm việc ngoài tỉnh. Khi người lao động đáp ứng đủ các điều kiện, chính quyền sẽ hỗ trợ 2 triệu đồng đối với mỗi lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài; hỗ trợ 1 triệu đồng đối với lao động đi làm việc ngoài tỉnh.
2- Di cư lao động thời vụ (đi lúc nhàn rỗi, tính công và trả công theo ngày, tuần). Đây là dòng di cư lớn nhất trong các loại hình di cư. Dòng di cư này thể hiện ở cả trên 2 khu vực. Một là, di cư lao động nội địa: đồng bào DTTS đi về các thành phố làm thuê cho các chủ thầu xây dựng, các doanh nghiệp tư nhân nhỏ lẻ hay giúp việc gia đình. Đây là dòng di cư lao động khá phổ biến hiện nay, bởi phù hợp với trình độ, năng lực cũng như thời gian cho người lao động vùng đồng bào DTTS. Hai là, di cư lao động qua biên giới (Trung Quốc và Lào): Họ đi về theo mùa vụ, thời gian lao động có thể một, hai tháng, có thể một, hai tuần. Để ngăn chặn tình trạng đi lại, cư trú bất hợp pháp, chính quyền địa phương đã tích cực thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Nhà nước, những vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự và thủ tục pháp lý qua lại biên giới, tạo điều kiện cho người dân xuất cư lao động hợp pháp. Tóm lại, mục đích, động cơ của các dòng di cư này chủ yếu là do sinh kế, tìm kiếm việc làm để tăng thu nhập, cải thiện cuộc sống và sửa sang, xây mới nhà cửa, mua sắm phương tiện đi lại...
Dự báo xu hướng di cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Thứ nhất, di cư theo kế hoạch: Loại hình di cư theo kế hoạch trong phạm vi tỉnh, huyện tiếp tục diễn ra do yêu cầu bảo vệ vùng sinh thái tự nhiên; tránh các nguy cơ sạt lở, thiên tai; ô nhiễm môi trường vì sự phát triển nóng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc biệt là phục vụ yêu cầu xây dựng các công trình thủy điện.
Thứ hai, di cư tự do: Do sự giám sát chặt chẽ của chính quyền các cấp ở cả nơi đi và nơi đến, điều kiện môi trường sản xuất ở nơi đến không còn thuận lợi như trước, những vướng mắc khi triển khai các chính sách, các nguồn phúc lợi (không dành cho những người cư trú bất hợp pháp)..., nên trong thời gian tới, dòng di cư này sẽ ngày càng ít đi.
Thứ ba, di cư lao động: Đây sẽ là dòng di cư phổ biến, ngày càng gia tăng, chủ yếu gồm 3 hình thức. 1- Di cư lao động đến các doanh nghiệp: dòng di cư này là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, dòng di cư này có gia tăng hay không tùy thuộc vào nhận thức, khả năng thích nghi với môi trường lao động công nghiệp của đồng bào DTTS. 2- Di cư lao động sang các nước láng giềng lao động: Sẽ ngày càng gia tăng, bởi sự chênh lệch thu nhập cũng như điều kiện giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng. Sự gia tăng kiểm soát của chính quyền cả hai nước, cũng như quy định thời hạn qua lại biên giới của người dân được kéo dài hơn, thủ tục cấp phép được phân cấp cho chính quyền cấp cơ sở (cấp xã) đã tạo thuận lợi cho việc đi lại hợp pháp của bà con. Do đó, ở cấp quốc gia, cần có sự hợp tác ký kết giữa hai bên để không chỉ người dân vùng biên giới, mà cả người dân các tỉnh khác không có biên giới với các nước láng giềng cũng có thể làm thủ tục thuận tiện cho việc xuất khẩu lao động. Đây cũng là giải pháp để ngăn chặn hiện tượng di cư lao động trái phép qua biên giới; 3- Xu hướng di cư lao động giản đơn trong nội địa tiếp tục phát triển, bởi nhu cầu lao động giản đơn từ các công trình xây dựng ở đồng bằng sẽ ngày càng gia tăng; nhu cầu giúp việc, các dịch vụ ở các thành phố cũng phát triển mạnh.
Một số giải pháp để thực hiện tốt việc di cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Thứ nhất, bảo đảm đất ở, đất canh tác, việc làm.
Bảo đảm đất ở, đất canh tác cho đồng bào DTTS di cư tự do đến các địa phương là vấn đề quan trọng, cấp thiết nhất hiện nay. Bởi có an cư, lạc nghiệp thì người dân mới không tiếp tục di cư tự do nội vùng và ngoại vùng.
Những năm vừa qua, đã có các chương trình, đề án xây dựng các tiểu khu, các điểm tụ cư đối với đồng bào DTTS. Các chương trình, đề án này đã thu được kết quả tích cực; tuy nhiên, quá trình triển khai còn gặp không ít khó khăn về nguồn vốn, quỹ đất tái định cư, tập quán du canh, du cư của đồng bào DTTS... Chính vì vậy, cần có sự quan tâm hơn nữa của chính quyền địa phương nói riêng và của Đảng và Nhà nước nói chung về vấn đề di cư của đồng bào DTTS.
Thực hiện đúng tiến độ và mục tiêu các dự án quy hoạch bố trí, sắp xếp ổn định dân cư đã được phê duyệt. Các địa phương cần ưu tiên bố trí ổn định dân cư theo hình thức xen ghép, nhằm giảm chi phí và khó khăn về quỹ đất. Trong điều kiện có thể, khơi dựng tinh thần cộng đồng, động viên người dân bản địa trợ giúp người dân di cư tự do bằng cách thức nhường lại một phần đất ở, đất rừng, đất canh tác theo các phương thức phù hợp.
Thứ hai, xây dựng thiết chế xã hội ở cơ sở và trong cộng đồng các dân tộc di cư tự do.
Cần xây dựng, duy trì, phát huy các thiết chế xã hội ở cơ sở, tập trung vào việc phát triển đảng viên, gây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, người uy tín trong các cộng đồng, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, không để địa bàn tụ cư của đồng bào DTTS, di cư tự do “trắng” đảng viên, cán bộ cốt cán, người có uy tín. Cùng với đó, phát huy thiết chế xã hội trong các cộng đồng đồng bào DTTS. Cần nhận thức rõ rằng, các DTTS có ý thức cộng đồng thân tộc rất mạnh, đó là cội nguồn tâm linh, tinh thần, là cơ sở để họ tồn tại qua nhiều thế kỷ dù đã du canh, du cư qua nhiều vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, khi xây dựng, phát huy thiết chế xã hội trong các cộng đồng đồng bào DTTS, cần chú trọng xây dựng, duy trì, phát huy bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, làm cơ sở cho việc quản lý dân cư tốt hơn, bền chặt hơn.
Thứ ba, quản lý dân di cư, ổn định địa bàn.
Việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn trước xu hướng di cư lao động tự do của đồng bào DTTS đòi hỏi phải kiểm soát, quản lý dân cư, nhất là đối với đồng bào các DTTS di cư tự do.
Việc quản lý dân cư đối với đồng bào DTTS di cư tự do đến các nơi khác đã, đang và sẽ còn gặp nhiều khó khăn, do ý thức công dân của người di cư lao động tự do. Họ chưa có thói quen “đi báo, đến trình” và còn có trường hợp lảng tránh cán bộ cơ sở, không muốn vào khu định cư.
Một khó khăn khác cũng cần tính đến là, người dân di cư lao động tự do thường sống rải rác, cách xa các khu trung tâm, thiếu kết cấu hạ tầng thiết yếu. Do sống phân tán, ở vùng sâu, vùng xa nên thường bị kẻ xấu xúi giục, lôi kéo không hợp tác với chính quyền cơ sở trong việc quản lý dân cư. Do đó, chính quyền địa phương cần quan tâm, động viên, đặc biệt là tăng cường phổ biến, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp người dân nhận thức rõ các vấn đề liên quan trực tiếp đến an ninh, an toàn cho bản thân, gia đình, cũng như liên quan đến an ninh quốc gia. Bên cạnh đó, cần có giải pháp sớm tháo gỡ những vấn đề bất cập về hộ tịch, hộ khẩu cho người dân di cư tự do theo quy định của pháp luật.
Xu hướng di cư của đồng bào DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc trong thời gian tới đòi hỏi sự quan tâm sát sao hơn nữa của các cấp, các ngành, đặc biệt là các địa phương có sự di cư đi - đến của đồng bào DTTS, nhất là trong quá trình thực hiện chính sách di cư nhằm đem lại hiệu quả tích cực, góp phần tạo sự ổn định đời sống của người dân và phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương./.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động văn hóa Thủ đô gắn với xây dựng thương hiệu “Thành phố sáng tạo”  (08/10/2021)
Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử trên địa bàn Hà Nội  (02/10/2021)
Thường trực Chính phủ làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế  (01/10/2021)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển