Thực hiện quản lý phát triển xã hội gắn với tiến bộ, công bằng xã hội theo quan điểm Đại hội XII của Đảng

Vũ Thị Minh Tâm ThS, Khoa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Kỹ thuật quân sự
22:57, ngày 08-09-2017

TCCS - Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục phát triển quan điểm và thực tiễn quản lý xã hội gắn với tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với bối cảnh mới. Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là mục tiêu phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, kích thích tính năng động, sáng tạo của mọi thành viên xã hội, huy động các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài nước vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Muốn thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thì phải bảo đảm hiệu quả quản lý phát triển xã hội...

Mối quan hệ biện chứng giữa tiến bộ xã hội, công bằng xã hội và quản lý phát triển xã hội

Tiến bộ xã hội là một khái niệm phản ánh con đường tiến lên của xã hội được xem như một hệ thống toàn vẹn, hoàn chỉnh từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người. Tiến bộ xã hội trước hết được xem xét trong cái đối lập với nó là thoái bộ. Nghĩa là khi đề cập phạm trù tiến bộ xã hội, không thể không bàn mặt đối lập của nó là thoái bộ xã hội, xét trong tổng thể sự vận động xã hội. Nói cách khác, toàn bộ sự phát triển phải bao hàm cả sự tiến bộ và thoái bộ, sự đan xen giữa tiến bộ và thoái bộ trong quá trình thực hiện tiến bộ xã hội. Mặt khác, phải nhận thức và đặc biệt chú ý đến tính chất không đều của tiến bộ xã hội. Đây là phương diện có ý nghĩa biện chứng của tiến bộ xã hội. Vì, sự phát triển ở mỗi bộ phận, mỗi lĩnh vực của xã hội không chỉ tuân theo những nguyên tắc chung của tiến bộ lịch sử mà còn bị chi phối bởi những quy luật nội tại của bản thân bộ phận, lĩnh vực ấy, do đó, sự phát triển không đều giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như ngay trong bản thân một lĩnh vực nào đó là một thực tế không tránh khỏi.

Tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội được thể hiện ở các thành tựu khoa học, trạng thái chính trị - xã hội, trình độ học vấn, bảo vệ sức khoẻ, lối sống, ý thức đạo đức, thế giới quan, kỷ luật lao động, văn hoá lao động, qua đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất... Xã hội nào đem lại nhiều khả năng hơn cho sự phát huy sức mạnh và năng lực sáng tạo của con người, hoàn thiện bản chất con người thì xã hội đó được coi là tiến bộ. Tiến bộ xã hội do đó gắn liền với công bằng xã hội, được thực hiện trên cơ sở thực hiện công bằng xã hội. Nói cách khác, công bằng xã hội vừa là một tiêu chuẩn cơ bản của tiến bộ xã hội, vừa là điều kiện thực hiện tiến bộ xã hội.

Công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử phản ánh mối quan hệ giữa người với người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó bảo đảm sự tương xứng giữa phẩm chất và năng lực với cơ hội và điều kiện phát triển, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ, phù hợp với khả năng hiện thực của xã hội một cách ngang nhau. Công bằng xã hội thể hiện khát vọng của con người và là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội. Công bằng xã hội mang tính toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội..., trên cơ sở bảo đảm sự tương xứng giữa việc tạo ra và phân phối các lợi ích xã hội.

Phương diện kinh tế của công bằng xã hội được xem xét là sự tương xứng giữa cống hiến của cá nhân, nhóm xã hội vào quá trình sản xuất với sự hưởng thụ những kết quả sản xuất - đây là phương diện cơ bản nhất của công bằng xã hội. Phương diện chính trị, pháp quyền của công bằng xã hội liên quan và quy định đến vấn đề dân chủ, tự do cá nhân, quyền con người, sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Phương diện văn hóa - xã hội của công bằng xã hội liên quan và quy định vấn đề đạo đức, phong tục, tập quán, phân tầng xã hội, an sinh xã hội; vấn đề cơ hội trong việc sáng tạo và thụ hưởng những thành tựu văn hóa, nghệ thuật. Công bằng xã hội có nội dung phong phú, tuy nhiên có thể khái quát ở hai nội dung chính, đó là, công bằng trong phân phối và công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển.

Công bằng trong phân phối trước hết và rất quan trọng là trong phân phối tư liệu sản xuất. Dưới chủ nghĩa xã hội, phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất và là hình thức thể hiện tất yếu về mặt kinh tế của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Nếu xóa bỏ phân phối theo lao động thì chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sẽ không được thực hiện, quyền bình đẳng của người lao động đối với tư liệu sản xuất sẽ trở thành vô nghĩa, công bằng xã hội sẽ không được thực hiện. Công bằng về cơ hội, điều kiện phát triển chính là việc tạo cho mọi người tiếp cận phù hợp các cơ hội, điều kiện phát triển, thông qua đó, phát huy mọi năng lực của mình, cống hiến tích cực, có hiệu quả; đồng thời, hưởng thụ một cách tương xứng với kết quả của sự cống hiến đó.

Công bằng xã hội muốn thực hiện có hiệu quả phải bảo đảm quản lý phát triển xã hội. Nói cách khác, quản lý phát triển xã hội là điều kiện để thực hiện công bằng xã hội. Quản lý phát triển xã hội là sự tác động, tổ chức, điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với quá trình phát triển xã hội bảo đảm thực hiện được các mục tiêu và yêu cầu phát triển xã hội bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Về mặt lý luận và nguyên tắc, phát triển xã hội được thể hiện qua việc xây dựng và thực thi các chính sách; còn quản lý phát triển xã hội là những hoạt động bảo đảm cho xã hội phát triển theo đúng quy luật, bảo đảm công bằng, tiến bộ và bình đẳng xã hội. Về mục đích, quản lý phát triển xã hội cần bảo đảm phát triển chất lượng cuộc sống của nhân dân; nhân dân là chủ thể phát triển xã hội và quyền làm chủ đó được tôn trọng và bảo vệ; bảo đảm môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; con người phát triển toàn diện, có cơ hội cống hiến và hưởng thụ thành quả của sự phát triển.

Về nội dung, quản lý phát triển xã hội thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với các bước căn bản là: Khảo sát, điều tra thực trạng các vấn đề xã hội; xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội; tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển, xử lý các sai phạm; sơ tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm. Như vậy, nội dung quản lý phát triển xã hội bao gồm nhiều bước, có tính liên hoàn, tác động ảnh hưởng lẫn nhau, không thể xem nhẹ một bước nào. Tuy vậy, vấn đề xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, chính sách, pháp luật về phát triển xã hội có ý nghĩa quyết định.

Quyết tâm thực hiện quản lý phát triển xã hội bền vững gắn với tiến bộ, công bằng xã hội

Rút kinh nghiệm về bài học nóng vội, chủ quan trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trước đổi mới, Đại hội XII của Đảng xác định: Thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta; gắn kết chính sách kinh tế với chính sách xã hội nói chung, gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) chỉ rõ, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Tiếp tục quan điểm đó, tại các kỳ đại hội VIII, IX, X, XI, Đảng đã xác định rõ hơn mục tiêu công bằng xã hội, triển khai thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả bước đầu.

Sau 30 năm đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của đất nước có những bước phát triển quan trọng. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”(1).

Hiện nay, khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng; các nhóm xã hội yếu thế, người lao động ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa ít có cơ hội tiếp cận một cách tốt nhất các điều kiện giáo dục, chăm sóc sức khỏe và các cơ hội xã hội khác. Có thể nói, công bằng xã hội là mục tiêu cao đẹp, nhưng về cơ bản chưa thực sự được cụ thể hóa thành những nội dung phù hợp với từng lĩnh vực, từng đối tượng dân cư, từng vùng miền, từng chính sách, từng việc làm thiết thực. Nhiều hiện tượng bất công vẫn xảy ra khiến niềm tin của một bộ phận người dân về một sự tiến bộ và công bằng xã hội bị xói mòn, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội.

Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân. Một mặt, công bằng xã hội là một vấn đề phức tạp, khó có một quan niệm, một chuẩn mực “bất di, bất dịch” về công bằng xã hội chung cho mọi quốc gia, mọi thời đại, cũng như không thể áp đặt những chuẩn mực về công bằng xã hội vượt quá những cơ sở, điều kiện khách quan của lịch sử cho phép. Mặt khác, để hiện thực hóa mục tiêu công bằng xã hội cần hàng loạt những điều kiện khách quan và chủ quan, phải giải quyết nhiều quan hệ đa dạng và phức tạp trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là quan hệ thường không dễ điều hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa quy luật cạnh tranh thị trường cùng những hệ quả tiêu cực của nó với mục tiêu xây dựng xã hội lành mạnh, tiến bộ, xác lập công bằng xã hội toàn diện...

Tiếp tục tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để xây dựng một mô hình lý thuyết về phát triển xã hội, về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với điều kiện nước ta, Đại hội XII của Đảng xác định: “Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chất lượng dân số, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập; xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh, an toàn”(2). Quan điểm trên thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng về vấn đề công bằng xã hội, cụ thể hóa các vấn đề thực hiện công bằng xã hội, gắn thực hiện công bằng xã hội với an sinh xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững.

Nhấn mạnh và gắn kết việc thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội với việc bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển là một điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bởi lẽ, an sinh xã hội về bản chất thể hiện quyền cơ bản của con người, là công cụ để xây dựng một xã hội tiến bộ, hài hòa, văn minh. Nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội là bảo đảm sự chia sẻ, tương trợ đối với rủi ro của các thành viên trong cộng đồng xã hội.

Muốn cho sự phát triển kinh tế có tác động đến công bằng xã hội, cần phải có hệ thống chính sách xã hội tích cực, đúng đắn, đồng thời động viên được toàn xã hội tham gia thực hiện. Mục tiêu bao trùm của tất cả các chính sách xã hội là phải mang lại cho con người một cuộc sống tốt đẹp không chỉ dành riêng cho một thiểu số hay tập đoàn nào, mà là cho mọi người dân trong xã hội; chính sách đó phải phát triển xã hội một cách bền vững phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và truyền thống văn hóa của dân tộc.

Thực hiện chủ trương đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định, về chính sách kinh tế, phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Về chính sách xã hội, tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống. Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động,... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh xã hội của công dân. Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng chính sách, người nghèo, nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,... Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế.

Về thực hiện công bằng xã hội trong phân phối, Đảng ta xác định không chỉ dừng lại ở phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế mà còn phải kết hợp với các nguyên tắc khác, như: phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Thực hiện các giải pháp, chính sách và quản lý để khắc phục từng bước sự mất cân đối về phát triển đối với từng lĩnh vực, từng vùng, bảo đảm sự hài hòa cả trong phát triển, hưởng thụ; bảo đảm cơ cấu giai tầng xã hội, dân cư, ngành nghề hợp lý. Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.

Chính sách kinh tế dù tối ưu đến đâu, cũng không thể bao quát và giải quyết được tất cả những khía cạnh phức tạp của lĩnh vực xã hội rộng lớn. Bởi vậy, những giải pháp kinh tế nếu không đi kèm theo các giải pháp xã hội nhất định sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nhức nhối. Cần có những chính sách xã hội nhất định để bổ sung cho chính sách kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội xuất hiện trong quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho xã hội; bảo đảm cơ sở và những điều kiện cơ bản cho đời sống vật chất và tinh thần của con người thông qua các chính sách phân phối thu nhập cho mọi đối tượng, đào tạo, giáo dục, bảo vệ sức khỏe, bảo hộ và bảo hiểm lao động, nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế hiện nay và chuẩn bị một đội ngũ lao động cho những bước phát triển cho tương lai của đất nước.

Thực hiện nguyên tắc đó, Đại hội XII của Đảng xác định, giải quyết tốt lao động, việc làm và thu nhập cho người lao động... Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương, thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt nhất nguồn lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nông nghiệp do việc tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đô thị và các công trình công cộng. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền lương, tiền công, khắc phục cơ bản những bất hợp lý...

Tiến bộ và công bằng xã hội phải được thực hiện thường xuyên, ngay từ đầu và trong suốt quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn, tiến bộ và công bằng xã hội có những đặc điểm riêng phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, không thể hoàn thành ngay trong một sớm, một chiều. Dù còn nhiều khó khăn, nhưng tiến bộ và công bằng xã hội luôn là khát vọng của nhân dân, là mục tiêu thấm đượm tinh thần nhân văn hướng đến trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mà toàn Đảng, toàn dân ta đang nỗ lực, tin tưởng và quyết tâm thực hiện./.

--------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 133, 134

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 78