Đảng Cộng sản Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa

Vũ Minh Giang
19:20, ngày 17-04-2009

TCCS - Từ trước tới nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được sự quan tâm đặc biệt của giới học giả trong các công trình nghiên cứu của mình. Đã có khá nhiều ấn phẩm về chủ đề này được công bố. Tuy nhiên, điểm lại các công trình ấy có thể dễ dàng nhận thấy cho đến nay, việc nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ lịch sử, chính trị. Nghiên cứu Đảng Cộng sản Việt Nam dưới góc độ văn hóa dường như còn tương đối mới mẻ ở nước ta. Bài viết này là một thử nghiệm với mong muốn góp phần làm phong phú thêm nhận thức về Đảng Cộng sản Việt Nam từ góc nhìn văn hóa.

1 - Về khái niệm văn hóa

Trong những năm gần đây, văn hóa được nói tới nhiều nhưng lại là một khái niệm thường hay gây tranh cãi. Nếu liệt kê đầy đủ thì có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, nhưng tựu trung có thể quy về hai nhóm chính. Quan niệm theo nghĩa hẹp coi văn hóa chỉ là những hoạt động liên quan đến đời sống tinh thần, những quan hệ xã hội và những sáng tạo giá trị nghệ thuật. Quan niệm theo nghĩa rộng coi văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và tuyên ngôn của UNESCO gần đây có thể xếp vào nhóm quan niệm thứ hai. Văn hóa là tất cả những sáng tạo hữu thức của một cộng đồng người vì mục đích tồn tại và phát triển, nghĩa là văn hóa cũng được quan niệm theo nghĩa rộng.

Từ một khái niệm tương đối rộng như vậy, để dễ nhận diện, có thể chia văn hóa thành các hợp phần thành tố (component) nhỏ hơn, theo đó, tất cả những hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực tạo ra của cải vật chất được gọi chung là Văn hóa sản xuất. Tất cả những hoạt động sáng tạo phục vụ nhu cầu cuộc sống vật chất và tinh thần (ăn, mặc, ở, đi lại, diễn xướng...) được khái quát bằng thành tố Văn hóa bảo đảm đời sống (văn hóa ẩm thực nằm trong thành tố này). Toàn bộ những hoạt động sáng tạo trong tổ chức và quản lý xã hội (phong tục, tập quán, giá trị đạo đức, thể chế, luật pháp, thiết chế chính trị...) được quy về thành tố Văn hóa quy phạm. Văn hóa tâm linh là thành tố dung chứa tất cả những hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực đời sống tâm linh (tôn giáo, tín ngưỡng...). Để có thể biểu diễn khái quát những điều trên đây, có thể dùng 5 vòng tròn được sắp xếp như sau:

Hình 1: Các thành tố văn hóa

Bốn vòng tròn nhỏ tượng trưng cho 4 thành tố văn hóa. Chúng không trùng nhau nhưng cũng không hoàn toàn tách rời. Điều đó có nghĩa rằng, sự phân chia các hoạt động sáng tạo văn hóa chỉ là rất tương đối và giữa các loại hình, luôn có mối quan hệ đan xen phức hợp. Vòng tròn lớn ngoài cùng là những sáng tạo văn hóa có tính bao trùm, không thể xếp vào một trong bốn hợp phần, chẳng hạn như sáng tạo ngôn ngữ, chữ viết...

Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người nên luôn in đậm dấu ấn của chủ nhân. Chính vì vậy mà người ta thường nói văn hóa là căn cước để nhận diện một cộng đồng, một dân tộc. Nhưng, chính con người cũng là sản phẩm của môi trường và hoàn cảnh, của những tác động khách quan. Do đó, để tìm ra những đặc trưng văn hóa cần tìm hiểu những tác nhân này. Xin xem sơ đồ dưới đây:

Hình 2: Những tác nhân tạo nên đặc trưng văn hóa

Ý nghĩa của sơ đồ, một mặt, nói lên vị trí trung tâm của chủ nhân văn hóa là con người; mặt khác, trong quá trình sáng tạo văn hóa của một cộng đồng, con người luôn chịu tác động thường xuyên của hoàn cảnh tự nhiên và môi trường sinh thái, môi trường xã hội và hoàn cảnh lịch sử. Mối quan hệ tương tác giữa các tác nhân này với con người đã tạo nên đặc trưng văn hóa.

Một đặc trưng nổi trội của văn hóa là giao lưu và tiếp biến, theo đó tác động qua lại và chịu ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, tiếp nhận các giá trị văn hóa ngoại lai, biến đổi nó cho phù hợp và dần trở thành cái của mình, làm phong phú thêm vốn văn hóa của mình là hiện tượng có tính quy luật.

Trong bốn thành tố đã nêu ở trên, toàn bộ những sáng tạo của một cộng đồng tạo nên thiết chế quyền lực, phương thức vận hành, những giá trị chi phối hoạt động chính trị, những mối quan hệ và ứng xử giữa con người với nhau trong quá trình chính trị có thể quy khái niệm văn hóa chính trị thuộc văn hóa quy phạm. Cũng như các sáng tạo văn hóa khác, văn hóa chính trị cũng chịu những tác động khách quan và chịu sự chi phối bởi những đặc trưng chung của văn hóa.

2 - Về khái niệm văn hóa chính trị

Văn hóa chính trị (Political culture) như một thuật ngữ trong khoa học chính trị xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng giữa thế kỷ XX, gắn với tên tuổi hai học giả Hoa Kỳ là Ga-bri-en An-môn (Gabriel Almond) và Xít-ny Ve-ba (Sidney Verba). Theo hai ông, văn hóa chính trị được hiểu như thái độ, cách thức ứng xử của một cộng đồng dân tộc (bao gồm cả chính giới và người dân) với quyền lực chính trị(1). Từ đó đến nay, cùng với sự phát triển đa dạng của khoa học chính trị, nội hàm của khái niệm văn hóa chính trị cũng được hiểu rất khác nhau, nên khó có thể dựa hẳn vào một định nghĩa nào. Hơn nữa, mặc dù các học giả phương Tây là những người đi tiên phong trong việc đưa ra khái niệm, nhưng xét về thực chất, văn hóa chính trị đã hình thành từ rất sớm và không phải chỉ có ở châu Âu. Với ý nghĩa đó, tác giả không đi sâu vào các khái niệm mà cố gắng đưa ra một quan niệm, có thể hiểu như một tiền đề cho việc trình bày những nội dung trọng tâm của bài viết này.

Cũng giống như quá trình sáng tạo văn hóa nói chung, một đặc điểm quan trọng của văn hóa chính trị là cùng với những yếu tố nội sinh / tính đồng nhất (endogeneous / homogeneity) - những yếu tố có cội nguồn bản địa, sinh ra từ cơ tầng văn hóa truyền thống, tạo nên tính đồng nhất cao trong văn hóa chính trị, luôn có những yếu tố ngoại lai nhưng được tiếp biến và có sức sống trong văn hóa bản địa hoặc những giá trị văn hóa bản địa bị biến đổi dưới tác động của chúng, được gọi là yếu tố ngoại sinh / tính khác thể (exogeneous / hoterogeneity).

Văn hóa chính trị Việt Nam không nằm ngoài những quy luật chung này của nhân loại.

3 - Một số đặc điểm của văn hóa chính trị Việt Nam

Chủ nhân của văn hóa Việt Nam - một nền văn hóa đa dạng, phong phú - là một cộng đồng phức hợp về mặt nhân chủng bao gồm 54 thành phần dân tộc, trong đó dân tộc Kinh (Việt) chiếm trên 91%. Nếu như các dân tộc trên đất Việt Nam là bức tranh thu nhỏ của bản đồ tộc người đa sắc mầu trên toàn khu vực Đông - Nam á và nam Trung Hoa thì người Kinh lại là sản phẩm kết tinh của sự giao hòa suốt mấy nghìn năm của các cộng đồng tộc người đó. Do đặc điểm này mà người Việt có một số ưu thế như sức sống bền bỉ dẻo dai, mẫn cảm với cái mới, năng lực sáng tạo rất dồi dào. Địa bàn sinh tụ của người Việt ở vào vùng nhiệt đới, gió mùa, nắng lắm, mưa nhiều lại tập trung theo mùa nên bão lũ thường xuyên xảy ra và đi kèm với nó là ẩm thấp, dịch bệnh... Môi trường sống là vùng đất giao thoa với những biến động thường xuyên đã đặt ra cho con người những thử thách hiểm nghèo. Khắc phục và thích ứng với hoàn cảnh đó, người Việt trải qua nhiều thế hệ đã được tôi rèn bản lĩnh và nhiều truyền thống đã hình thành. Những chuẩn mực xã hội và quy phạm đạo lý truyền thống đã có ảnh hưởng không nhỏ đến văn hóa chính trị Việt Nam.

Đây là những yếu tố được hình thành trong một quá trình rất lâu dài của lịch sử. Những chuẩn mực hay quy phạm ngưng đọng lại, đã trở thành những giá trị được cả cộng đồng thừa nhận thì rất khó biến đổi, rất khó bị mất đi, thậm chí được coi là “trường tồn”. Vì vậy, nó có tác dụng rất lớn trong việc kiểm soát và điều chỉnh các hành vi của mỗi thành viên trong cộng đồng.

Đối với người Việt, do đặc điểm của lịch sử, luôn luôn phải đối chọi với các thế lực ngoại bang để bảo tồn giống nòi. Những cuộc chiến tranh để giành và giữ độc lập dân tộc diễn ra khá thường xuyên nên thái độ đối với quyền lợi dân tộc là một chuẩn mực, một thước đo quan trọng của người Việt Nam. Trước đây, dưới thời phong kiến, trong dân chúng đã hình thành một nguyên tắc ứng xử rất tự nhiên: "Sinh vi danh tướng, tử vi thần". Có nghĩa là tất cả những ai có công lao đánh giặc giữ nước, lúc qua đời được nhân dân tôn thờ là thần linh. Kế thừa những chuẩn mực xã hội mang tính truyền thống, trong giai đoạn cách mạng hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu nổi tiếng: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Khẩu hiệu đó đáp ứng đúng tâm tư, nguyện vọng của người dân Việt Nam nên đã có sức lan tỏa vô cùng rộng lớn. Vì đây là một giá trị tinh thần được cả xã hội đề cao, nên qua năm tháng nó trở thành một quy phạm đạo lý chính trị của người Việt Nam.

Sống trong môi trường của quan hệ làng xã suốt mấy nghìn năm, người Việt Nam ưa trợ giúp nhau. Dần dần những tập quán ứng xử đó cũng trở thành đạo lý, thành chuẩn mực để xét đoán. Để tồn tại và phát triển đến ngày nay, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua những thử thách vô cùng hiểm nghèo. Vũ khí mạnh mẽ nhất giúp dân tộc Việt Nam thành công trước những thử thách đó là đoàn kết dân tộc. Do đó, đoàn kết thống nhất là một chuẩn mực của đạo lý Việt Nam. Để duy trì khối đoàn kết thống nhất, người Việt Nam có một chuẩn mực xã hội truyền thống là quyền lợi cá nhân phải phục tùng quyền lợi của cộng đồng, quyền lợi của các cộng đồng nhỏ phải phục tùng quyền lợi của cộng đồng lớn, quyền lợi của cả dân tộc.

Nói đến văn hóa chính trị không thể không kể đến tập quán chính trị của cư dân. Đây là một nội dung quan trọng của truyền thống chính trị. Nó phản ánh lối ứng xử truyền thống của cư dân (những người bị / tiếp nhận sự cai trị) với chính quyền. Qua tổng kết của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể nêu một số biểu hiện về tập quán chính trị của người Việt Nam:

- Việt Nam là một dân tộc không sùng tín. Do đó trong lịch sử không có hệ tư tưởng tôn giáo nào hoặc những học thuyết cai trị nào khiến cho người Việt sùng bái đến mức cực đoan hoặc làm mê muội họ.

- Người Việt Nam có mẫn cảm về chính trị và dễ can dự các công việc chính trị.

- Việt Nam là một dân tộc không cam chịu, bất khuất.

- Do hoàn cảnh lịch sử khá đặc biệt, người Việt đã từng bị cai trị trong thời gian quá dài bởi các chính quyền đô hộ ngoại bang nên có một tập quán lấy tiêu chí dân tộc (vì lợi ích dân tộc hay phản lại lợi ích đó) để phân biệt chính quyền. Nếu là chính quyền vì lợi ích của dân tộc thì Làng - Nước là quan hệ hòa đồng. Nhưng khi chính quyền là của ngoại bang thì dân hoàn toàn đối lập lại chính quyền.

Trong văn hóa chính trị, uy tín chính trị là một nhân tố quan trọng. Đó là một trong những hình thức biểu hiện của quyền lực, nhưng mặt khác nó lại là ảnh hưởng được thừa nhận rộng rãi bởi quần chúng của cá nhân hay tổ chức trên phương diện chính trị. Cho nên vấn đề uy tín chính trị phụ thuộc rất nhiều vào quan niệm truyền thống của cộng đồng cư dân. Thông thường ở bất cứ đâu, uy tín đều được xây dựng trên cơ sở của các giá trị tri thức - kinh nghiệm, đạo đức - phẩm chất, tài năng và mức độ cống hiến nó. Tính cách dân tộc, hay nói cách khác là quan niệm truyền thống thường chi phối cách nhìn nhận về đạo đức phẩm chất và tính chất của sự cống hiến.

Đối với người Việt, ngoài những chuẩn mực chung, một cá nhân hay một tổ chức muốn có uy tín chính trị phải thể hiện được lòng yêu nước cao độ, phải hòa đồng gần gũi với dân chúng. Với riêng cá nhân thì phải biết hy sinh cá nhân và đem tài năng phụng sự dân tộc. Do đặc điểm của một nước nông nghiệp, vốn có truyền thống trọng kinh nghiệm hơn trọng tài năng, nên tuổi tác cũng là một yếu tố quan trọng tạo nên uy tín.

Bên cạnh những yếu tố nội sinh, trong văn hóa chính trị còn phải kể đến tư tưởng chính trị, các học thuyết cai trị và các giáo lý tôn giáo được du nhập vào nước ta qua các thời kỳ lịch sử, đã từng có vai trò thống trị trong quá khứ. Những yếu tố này thậm chí còn tiếp tục tác động đến thiết chế chính trị hiện đại. Có thể lấy Nhật Bản làm một thí dụ điển hình. Là một nước tư bản phát triển với nền kinh tế được vận hành theo các quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng nhìn vào văn hóa chính trị, tổ chức xã hội và thậm chí cả nghệ thuật quản lý kinh tế nữa, Nhật Bản rất khác các nước tư bản châu Âu. Các nhà nghiên cứu gọi đó là "chủ nghĩa tư bản Khổng giáo". Sự khác biệt này có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng theo các nhà sử học Nhật Bản, đó là kết quả tác động của những yếu tố truyền thống lên đời sống chính trị hiện đại, đặc biệt là ảnh hưởng của Sin-tô (Thần đạo), Bu-si-đa (Võ sĩ đạo), kết cấu Ye (Gia đạo) và Khổng giáo Nhật Bản.

Ở nước ta, bệ đỡ tư tưởng cho các hệ thống chính trị đã từng tồn tại trong lịch sử bao gồm những học thuyết, những tư tưởng chính trị - tôn giáo có nguồn gốc ngoại lai như Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo. Tuy nhiên, một đặc điểm rất nổi bật trong văn hóa chính trị Việt Nam là những tư tưởng và học thuyết ngoại lai chỉ có sức sống khi nhập thân vào dân tộc, hòa đồng với những tư tưởng, đạo lý chính trị bản địa, tuy không được hình thức hóa bằng các học thuyết, chủ nghĩa nhưng luôn là cốt lõi cho bệ đỡ tư tưởng chính trị. Thậm chí, nó còn là nhân tố chi phối buộc các học thuyết và hệ tư tưởng ngoại lai phải thay hình đổi dạng để phù hợp với đặc điểm dân tộc. Đó là chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc và truyền thống nhân ái, hòa đồng mang tính chất làng xã. Mặt khác, trải qua một thời gian dài, thích nghi, biến đổi, Phật giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và các giá trị văn hóa tiếp nhận khác cũng đã trở thành một bộ phận của văn hóanói chung và văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng.

4 - Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của văn hóa chính trị Việt Nam

Chủ nghĩa cộng sản và những chính đảng hoạt động vì lý tưởng cộng sản xuất hiện trước tiên ở châu Âu, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lại là một sản phẩm của văn hóa chính trị Việt Nam. Trước hết, như đã trình bày ở trên, tính chất dân tộc, thái độ đối với vận mệnh dân tộc là một đặc điểm quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất của văn hóa chính trị. Cuối thế kỷ XIX, độc lập, chủ quyền của Việt Nam rơi vào tay thực dân Pháp. Nhiều thế hệ các nhà yêu nước đã tìm đường cứu nước, nhiều phương sách chính trị đã được áp dụng để đất nước thoát khỏi ách thực dân. Nhưng chỉ có Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị duy nhất làm được điều đó. Sự ra đời của Đảng Cộng sản gắn liền với tài năng, công lao và phong cách của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng, vào cuối thế kỷ XIX, truyền thống Việt Nam, văn hóa Việt Nam, bao gồm cả văn hóa chính trị kết tinh trong một con người. Đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Năm 1911, Người quyết định xuất dương với một một mục tiêu duy nhất: tìm đường cứu nước. Nhân tố quyết định đưa Nguyễn ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là học thuyết này đứng về phía các dân tộc thuộc địa, bị áp bức bởi các thế lực đế quốc, thực dân.

Trong tác phẩm xuất bản gần đây, U.S.Tơ-ly (W.S.Turley), giáo sư khoa học chính trị của Đại học Ha-vớt đã nhận xét: "So với các chế độ cộng sản cũng đang cải cách khác, Việt Nam có được những lợi thế chính trị quan trọng. Lên nắm quyền qua chiến tranh và cách mạng,... Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu một hệ thống chính trị nhất thể, với một quyền lực và tính hợp pháp không bị ai thách thức.... Ban lãnh đạo của Đảng nằm trong số ổn định và thật sự nhất trí nhất trong thế giới cộng sản, và đảng viên của Đảng bao gồm một phần lớn những người tận tụy và yêu nước nhất ở Việt Nam”(2).

Kết luận trên đây của giáo sư U.S.Tơ-ly được rút ra từ sự nghiên cứu một cách khách quan lịch sử hệ thống chính trị Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy tụ xung quanh mình tất cả các lực lượng yêu nước và nhanh chóng giành quyền lãnh đạo toàn bộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Tám thành công đã đưa Đảng Cộng sản Việt Nam lên vị trí của một Đảng cầm quyền như một tất yếu lịch sử. Chính quyền cách mạng mới được xây dựng là thành quả của cả dân tộc và phải đổi bằng xương máu của biết bao thế hệ các chiến sĩ cách mạng, trong đó phần lớn là các đảng viên cộng sản. Hơn thế, mục tiêu cách mạng của Đảng Cộng sản không chỉ dừng lại ở việc giành và nắm chính quyền, mà là bằng chính quyền đó sẽ xây dựng thành công một nước Việt Nam giàu mạnh với một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, nhân dân được sống trong ấm no và hạnh phúc. Lý tưởng đó phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại bộ phận dân tộc. Vì vậy, vị trí lãnh đạo của Đảng là phù hợp với quy luật vận động của lịch sử Việt Nam không chỉ trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc mà trong cả thời kỳ xây dựng đất nước.

Tuy nhiên, là sản phẩm của văn hóa chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải khắc phục những mặt hạn chế vốn có của căn tính nông dân ở một nền văn hóa nông nghiệp với ảnh hưởng khá sâu nặng của văn hóa làng xã... và cần liên tục được hoàn thiện. Nhưng dù thế nào thì điều quan trọng nhất có thể thấy từ tiếp cận văn hóa là tính bền vững của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhập thân vào dân tộc, khai thác tối đa những mặt ưu trội của văn hóa chính trị Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ trường tồn cùng dân tộc./.
 
----------------------------------------------

(1) Gabriel Almond, Sidney Verba: The Civic Culture. Political Attitudes and Democracy in Five Nations, Princeton University Press, Princeton, New Jersey, 1963

(2) William S. Turley: “Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, Đổi mới chính trị ở Việt Nam: Đổi mới và thích ứng”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 523