Phát triển kinh tế biển xanh trong bối cảnh đại dịch COVID-19: Kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp
Trong thế kỷ XXI, nhiều quốc gia đã thấy những giá trị lớn lao mà biển và đại dương đem lại thể hiện qua các chính sách, chiến lược phát triển chung và các ngành, lĩnh vực kinh tế biển và đại dương. Sự nhận thức đầy đủ và toàn diện ngày càng tăng lên về tiềm năng kinh tế biển, đại dương song song với việc bảo vệ các nguồn tài nguyên tái tạo, phục hồi các hệ sinh thái, đa dạng sinh học,… với tư cách là nguồn “vốn” cho thế hệ hôm nay và mai sau đang thúc đẩy các nước, tổ chức quốc tế nghiên cứu, khám phá các mô hình phát triển kinh tế biển xanh.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng đối với an ninh, an toàn và sự phát triển trên toàn thế giới; kinh tế biển cũng không phải là ngoại lệ. Việc đóng cửa cảng hàng không, hạn chế đi lại và gián đoạn chuỗi cung ứng làm các ngành, lĩnh vực kinh tế biển như vận tải biển, du lịch biển và nghề cá gặp rất nhiều khó khăn để tồn tại và phát triển. Những quốc gia phụ thuộc vào ngư nghiệp, vận tải biển, du lịch… đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể, vừa phải đưa ra các biện pháp cứu trợ trong ngắn hạn, vừa tìm kiếm các giải pháp dài hạn. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19 không chỉ là thách thức, mà cũng là cơ hội để chuyển đổi hiệu quả sang kinh tế biển xanh và việc chuyển đổi này giúp chúng ta chịu được các cú sốc tương tự trong tương lai (Northrop và cộng sự, 2020).
Ngày 22-10-2018, Hội nghị Trung ương 8 khóa XII ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW “Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (sau đây viết tắt là Chiến lược). Quan điểm xuyên suốt của Chiến lược là “Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển,… phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.”. Nghị quyết là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về phát triển bền vững, đặc biệt là mục tiêu số 14 (Bảo tồn và sử dụng bền vững các đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững). Có thể nói đây là Chiến lược thể hiện mong muốn phát triển kinh tế biển xanh của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW nêu trên. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 203/QĐ-TTg ngày 6-2-2020 về thành lập Ủy ban chỉ đạo quốc gia thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Ủy ban[1] là tổ chức phối hợp liên ngành có chức năng giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo thống nhất, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Qua gần 2 năm Ủy ban giúp Thủ tướng Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, tác động bất lợi đến hầu hết mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các thành phần kinh tế, có 2 nhóm vấn đề lớn đặt ra là: (1) Chính sách, kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế biển xanh trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 vẫn hoành hành; (2) Các biện pháp trọng tâm để phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam giai đoạn 2022 - 2025. Trước bối cảnh mới, đặc biệt để ứng phó với Đại dịch COVID-19 và tình hình Biển Đông, Thủ tướng Chính phủ mới đây đã ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 24-11-2021 về đổi mới và tăng cường tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, đặt ra yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể đối với các bộ, ngành và địa phương có liên quan “cần nỗ lực cao, đổi mới sáng tạo, quyết tâm lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm, xử lý dứt điểm, không để kéo dài các nhiệm vụ được giao. Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, cần lựa chọn, xác định các dự án ưu tiên để tập trung đầu tư, tạo động lực thực sự cho phát triển bền vững kinh tế biển. Đẩy mạnh hơn nữa, hiệu quả hơn nữa hợp tác công - tư nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội vào phát triển kinh tế biển nói chung và kết cấu hạ tầng biển và ven biển nói riêng. Rà soát chính sách hiện hành trên cơ sở yêu cầu thực tiễn để tìm ra, chỉ rõ các chính sách, quy định đang kìm hãm các nguồn lực cho phát triển bền vững kinh tế biển để kiến nghị Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành tháo gỡ. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thực hiện nhanh việc chuyển đổi số các ngành kinh tế biển. Các địa phương có biển vừa phát huy tinh thần “tự lực, tự cường” (nội lực), vừa tận dụng “ngoại lực” cho phát triển; lấy doanh nghiệp làm trung tâm, khuyến khích hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư trong các ngành/lĩnh vực kinh tế biển, đặc biệt là 6 ngành kinh tế biển xác định trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, đây là những ngành kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.”
Quốc hội khóa 15 đã ban hành Nghị quyết số 31/2021/QH15 ngày 12-11-2021 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 và Nghị quyết số 43/2022/QH15 về Chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; trong đó đặt ra yêu cầu phải cơ cấu lại các ngành theo hướng hiện đại, phát triển kinh tế xanh, bền vững và hỗ trợ cụ thể đến các ngành kinh tế. Cơ cấu và hỗ trợ các ngành kinh tế biển theo Nghị quyết số 36-NQ/TW (như: du lịch biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí, nuôi trồng và khai thác hải sản, công nghiệp ven biển, năng lượng tái tạo) cũng là những vấn đề cần phải làm rõ trong Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội và Nghị quyết số 43/2022/QH15.
Phát triển kinh tế biển xanh trong bối cảnh cả nước đang triển khai thực hiện phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 là vấn đề mới, đòi hỏi sự tham khảo kinh nghiệm quốc tế.
1. Chủ trương phát triển kinh tế biển ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia biển, có lịch sử, truyền thống, văn hóa và quá trình dựng nước, giữ nước gắn liền với biển. Các vùng biển Việt Nam là một bộ phận quan trọng của Biển Đông, bao gồm vùng nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với diện tích khoảng 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền; có khoảng 3.000 hòn đảo, trong đó có 2 quần đảo xa bờ là Trường Sa và Hoàng Sa. Đường bờ biển dài trên 3.260 km, đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia có biển và quốc đảo trên thế giới. Khoảng một nửa dân số sinh sống và làm việc tại 28/63 tỉnh, thành phố ven biển trong cả nước. Toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trải dài theo hướng kinh tuyến, á kinh tuyến và có phần đất liền hẹp chiều ngang nên chịu ảnh hưởng của yếu tố biển, điều này tạo ra lợi thế “mặt tiền” hướng biển, thuận lợi cho giao thương và hội nhập kinh tế quốc tế qua đường biển. Với nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, các vùng biển Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã có những nghị quyết, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo hướng tới phát triển bền vững.
Bảo vệ biển, tiến ra biển, làm giàu từ biển. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến biển, đảo và thể hiện tầm nhìn “tiến ra biển” để làm giàu từ biển và bảo vệ biển từ rất sớm. Tháng 10-1956, khi tham dự Hội nghị Cải cách miền biển, Bác Hồ đã chỉ rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ đất nước “Đồng bằng là nhà, mà biển là cửa. Giữ nhà mà không giữ cửa có được không?... Nếu mình không lo bảo vệ miền biển thì đánh cá, làm muối cũng không yên. Cho nên một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc”. Tại Hội nghị khoa học Biển lần thứ 3 (ngày 8-6-1985), Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu chỉ đạo “Phải đặc biệt chú trọng kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh... Việc phân bố lực lượng sản xuất, phân bố lại lao động, phát triển kinh tế biển của các ngành, các địa phương phải theo sự bố trí chiến lược thống nhất, nhằm làm chủ cả về kinh tế và quốc phòng. Thế bố trí về mặt địa bàn vừa tạo điều kiện khai thác toàn diện và tổng hợp các nguồn tài nguyên, vừa hình thành một thế trận liên hoàn có chiều sâu, thuận lợi cho tác chiến”. Nghị quyết Đại hội VIII chỉ rõ “Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh, quốc phòng, có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển, kết hợp với an ninh, quốc phòng, tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc”.
Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, tiềm lực kinh tế biển của đất nước ta đã không ngừng lớn mạnh, phát triển với tốc độ khá nhanh và đã có những đóng góp quan trọng vào nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội của đất nước. Các văn kiện của Đảng, Nhà nước có liên quan tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết đẩy mạnh khai thác các tiềm năng lợi thế của các vùng biển Việt Nam cho phát triển kinh tế - xã hội, trong đó tiêu biểu nhất là Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới lúc đó và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giai đoạn đổi mới và hội nhập.
Phát triển kinh tế biển xanh. Qua 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu cơ bản, quan trọng, từ thay đổi tư duy, nhận thức đến hành động về phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hợp tác quốc tế,… Tuy nhiên, phát triển bền vững biển đã trở thành yêu cầu cấp bách hiện nay tại Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong giai đoạn phát triển mới hướng đến việc hoàn thành các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc, thì tăng cường kết nối giữa các hệ sinh thái kinh tế và các hệ sinh thái tự nhiên trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao và phát huy “vốn biển tự nhiên” sẽ là những đòn bẩy chính cho phát triển bền vững biển. Hội nghị Trung ương 8 khóa XII đã thống nhất cao ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, đánh giá 2 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Đảng và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ, thận trọng xem xét bối cảnh quốc tế và tiềm lực quốc gia, Đại hội hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định kinh tế biển như là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đưa Việt Nam đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế biển xanh trong các văn kiện, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021 - 2030 như sau:
- Quan điểm phát triển: Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát huy tiềm năng, lợi thế của biển, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước.
- Phát triển các ngành kinh tế biển xanh, đến năm 2030, phát triển thành công, đột phá về các ngành kinh tế biển: (1) Du lịch và dịch vụ biển; (2) Kinh tế hàng hải; (3) Khai thác dầu khí và các tài nguyên khoáng sản biển khác; (4) Nuôi trồng và khai thác hải sản; (5) Công nghiệp ven biển; (6) Năng lượng tái tạo và các ngành kinh tế biển mới.
- Phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển: Quy hoạch không gian biển xác định các vùng cấm khai thác, các vùng khai thác có điều kiện, khu vực khuyến khích phát triển, khu vực cần bảo vệ đặc biệt cho mục đích quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh thái trong vùng đất ven biển, các đảo, quần đảo, vùng biển, vùng trời thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam nhằm phát triển bền vững kinh tế biển trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, bản sắc văn hoá, tính đa dạng của hệ sinh thái, bảo đảm tính liên kết vùng, giữa địa phương có biển và không có biển.
- Bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học biển; chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và phòng, chống thiên tai: Mở rộng diện tích, thành lập mới các khu vực bảo tồn biển trên cơ sở quy hoạch không gian biển Quốc gia; chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, phục hồi các hệ sinh thái, đặc biệt là các rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển; bảo đảm tính toàn vẹn và mối quan hệ tự nhiên giữa các hệ sinh thái đất liền và biển.
2. Quốc tế đối với sự phát triển kinh tế biển xanh
“Kinh tế biển xanh” (Blue economy) là thuật ngữ ngày càng phổ biến trong quản trị biển và đại dương hiện nay. Tháng 6-2012, Liên hợp quốc đã tổ chức Hội nghị quốc tế về phát triển bền vững tại Rio de Janerio, Braxin (Rio +20). Trong quá trình thảo luận, mặc dù nhiều đại biểu tiếp tục coi phát triển kinh tế xanh “Green Economy” là giải pháp tổng thể để phát triển bền vững nhưng nhiều quốc gia biển, quốc gia đảo đã đặt ra các câu hỏi liên quan đến trọng tâm áp dụng kinh tế xanh “Green Economy” đối với họ, đồng thời nêu bật vai trò, giá trị của các vùng biển, đại dương đối với sự phát triển nhân loại. Với cách tiếp cận này, thuật ngữ biển xanh “Blue” đã được xem như bộ phận cấu thành quan trọng của “Green Economy” để phát triển bền vững, được thể hiện trong báo cáo “Kinh tế xanh trong thế giới biển xanh” (UNEP, 2012) và trong Chương trình nghị sự của Tổng Thư ký Liên hợp quốc giai đoạn 2012 - 2016.
Kể từ thời điểm Rio+20, ngày càng nhiều sự quan tâm đến kinh tế biển xanh trên khắp thế giới. Sự khác biệt lớn trong cách diễn giải về kinh tế biển xanh được thể hiện trong nhiều văn liệu khác nhau, do vậy sự đồng thuận đối với một định nghĩa phổ quát khó có thể xảy ra do có những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Khía cạnh được nhiều bên nhất trí coi Kinh tế biển xanh là một khái niệm linh hoạt, được sử dụng tùy vào bối cảnh, điều kiện và bởi các bên khác nhau nhằm đạt được 3 mục tiêu: (1) bền vững môi trường và hệ sinh thái biển, (2) phát triển nhanh các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, dựa vào biển hoặc có liên quan và (3) tạo ra công bằng xã hội hoặc có tính bao trùm.
Chính sách phát triển kinh tế biển xanh của một số tổ chức quốc tế, quốc gia tiêu biểu như sau:
Ủy ban cấp cao về phát triển bền vững kinh tế đại dương[2] (The High Level Panel for a Sustainable Ocean Economy) cho rằng phải thiết lập mối quan hệ mới với đại dương theo mô hình “Trip Win” cho con người, tự nhiên và kinh tế, cụ thể là: (i) Bảo vệ đại dương, (ii) Sản xuất bền vững và (iii) Bảo đảm thịnh vượng, công bằng. Ủy ban nêu ra 5 trụ cột để phát triển bền vững kinh tế đại dương: (1) Quyết định dựa vào dữ liệu; (2) Xây dựng một quy hoạch đại dương tổng thể gắn kết nhiều mục tiêu; (3) Giảm rủi ro tài chính và đổi mới để huy động vốn đầu tư; (4) Ngăn chặn ô nhiễm trên đất liền; (5) Thay đổi cách hạch toán đại dương để có thể phản ánh đúng giá trị của đại dương.
Ngân hàng Thế giới (Patil và cộng sự, 2016) đã đề xuất một Khung chính sách kinh tế biển xanh vừa bảo đảm sức khỏe biển và tăng trưởng kinh tế theo 3 tiêu chí: Xanh - Sạch - Phục hồi (Green - Clean - Resilent) với các đặc điểm sau:
- Đối với các ngành, lĩnh vực đánh bắt thủy sản, nuôi biển và công nghệ sinh học biển, thì cần đặt mục tiêu quản lý bền vững các tài nguyên tái tạo, quản lý nghề cá dựa vào hệ sinh thái.
- Đối với các ngành, lĩnh vực và hoạt động kinh tế biển khác (khoáng sản biển, dầu và khí, năng lượng tái tạo, vận tải biển, kết cấu hạ tầng và dịch vụ cảng biển, du lịch, xây dựng ven biển, cô lập các-bon xanh, bảo vệ bờ biển qua bảo vệ và phục hồi môi trường sống, xử lý chất thải từ đất liền).
- Tăng cường khả năng chống chịu ven biển bằng cách tăng cường khả năng đối phó với các bất ổn từ thiên tai, thời tiết cho các lực lượng ven biển và xây dựng kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu (như Chiến lược quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu).
Trung Quốc, phát triển kinh tế biển đã được thể hiện trong các Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 (2006 - 2010), Kế hoạch 5 năm lần thứ 12 (2011 - 2015) và Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016 - 2020). Trung Quốc nhấn mạnh sự cần thiết quản lý tổng hợp tài nguyên biển, ven biển và quy hoạch phân vùng chức năng biển quốc gia. Kinh tế biển xanh của Trung Quốc là công cụ, phương tiện quan trọng để đạt được sự hiện đại hóa trong 3 lĩnh vực: kinh tế, địa chính trị và sinh thái (Fabinyi và cộng sự, 2021).
Hiện đại hóa kinh tế biển thể hiện ở việc nâng cấp các ngành, lĩnh vực biển truyền thống (như nghề cá), tăng trưởng cao và phân vùng chức năng. Các nỗ lực hiện đại hóa thể hiện ở việc nâng cấp, đổi mới các công nghệ, thiết bị. Ngoài ra cũng tập trung thúc đẩy phát triển các lĩnh vực tăng trưởng cao (như du lịch ven biển, nuôi biển).
Hiện đại hóa chính trị được thể hiện ở sáng kiến “Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ XXI”. Sáng kiến này là cơ hội để các quốc gia hợp tác với Trung Quốc để cùng phát triển hướng đến sự thịnh vượng và an toàn chung[3]. Việc này cũng tạo điều kiện và cho phép Trung Quốc “mở và xác nhận quyền sở hữu” các không gian mới để khai thác và kiểm soát.
Hiện đại hóa sinh thái, Trung Quốc xem đại dương như một nguồn tài nguyên cần được bảo vệ, bảo tồn để tạo ra sự thịnh vượng.
Ủy ban châu Âu, tháng 5-2021 (European Commission 2021), đã công bố cuốn tài liệu về cách tiếp cận chuyển đổi sang kinh tế biển xanh của EU vì một tương lai bền vững (On a new approach for a sustainable blue economy in the EU Transforming the EU’s Blue Economy for a Sustainable Future). Có 3 nhóm mục tiêu và các công việc, hành động cần phải thực hiện, bao gồm: (1) Chuyển đổi chuỗi giá trị kinh tế biển xanh; (2) Tạo lập sự hỗ trợ xuyên xuốt cho phát triển bền vững kinh tế biển xanh; (3) Thiết lập các điều kiện để quản trị bền vững kinh tế biển xanh.
Ấn Độ, tháng 9-2020, Hội đồng tư vấn kinh tế của Thủ tướng Ấn Độ đã dự thảo Khung chính sách kinh tế biển xanh của Ấn Độ (EAC-PM 2020). Có 7 nhóm vấn đề ưu tiên chính của Ấn Độ để phát triển kinh tế biển xanh: (1) Khung hoạch toán quốc gia cho kinh tế biển xanh và quản trị đại dương; (2) Quy hoạch không gian biển ven biển và Du lịch; (3) Thủy sản biển, nuôi biển và chế biến thủy sản; (4) Sản xuất, các ngành mới nổi, thương mại, công nghệ, dịch vụ và phát triển kỹ năng; (5) Logistics, cơ sở hạ tầng và vận tải biển (bao gồm cả trung chuyển); (6) Khai thác đáy biển ven bờ và biển sâu, và năng lượng ngoài khơi; (7) An ninh, không gian chiến lược và gắn kết quốc tế.
Nhật Bản, Chính sách biển của Nhật Bản được cụ thể hóa tại Luật Cơ bản về Chính sách đại dương (Basic Act on Ocean Policy) được ban hành năm 2007 và Kế hoạch cơ bản về chính sách đại dương (Basic Plan on Ocean Policy) được Nội các Nhật Bản thông qua cứ 5 năm/lần. Ngày 15-8-2018, bản Kế hoạch cơ bản lần thứ ba (giai đoạn 2018 - 2023) được Nội các Nhật Bản thông qua trong bối cảnh tình hình an ninh hàng hải ngày càng bị đe dọa nghiêm trọng, cần phải bảo vệ lợi ích hàng hải và duy trì sự ổn định cho phát triển. Các biện pháp chính:
- Bảo đảm an ninh biển toàn diện, trong đó lấy trọng tâm là liên kết và hợp tác với các nước khác để thực hiện chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở (Free and Open Indo-Pacific Strategy).
- Thúc đẩy các ngành, lĩnh vực biển như: khai thác các tài nguyên băng cháy, quặng sulfua đa kim, đất hiếm; phân vùng khu vực sử dụng biển cho điện gió; tăng cường cạnh tranh quốc tế thông qua gia tăng năng suất và giá trị gia tăng từ các dịch vụ biển; tăng cường chức năng điểm chung chuyển hàng hải quốc tế; phát triển đánh bắt cá thương mại,…
- Duy trì và bảo tồn môi trường biển, trong đó sử dung các khuôn khổ quốc tế như: mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) để thực hiện việc bảo vệ môi trường biển; thiết lập các khu bảo tồn biển thích hợp, giảm ô nhiễm biển, bảo tồn các rạn san hô…; thực hiện các sáng kiến toàn diện nhằm hướng đến một vùng biển sạch và phong phú, thúc đẩy các cuộc điều tra và nghiên cứu.
- Nâng cao kiến thức khoa học, tập trung thúc đẩy nghiên cứu và phát triển khoa học và công nghệ biển; duy trì và tăng cường khảo sát đại dương, quan sát, giám sát từ trên cao. Hợp tác quốc tế theo hướng thượng tôn pháp luật và dựa trên nghiên cứu khoa học để hiện thực hóa lợi ích quốc gia.
Nhìn chung, chiến lược, chính sách biển, đại dương của các tổ chức quốc tế và nhiều nước có biển hiện nay đều đề cao giá trị của biển và đại dương, khai thác lợi thế, tiềm năng của biển phục vụ phát triển, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững số 14 của Liên hợp quốc. Hầu hết các nước đều đặt ra yêu cầu phát triển kinh tế biển bền vững, bảo đảm các vùng biển, đại dương khoẻ mạnh, ưu tiên cho việc mở cửa hướng ra biển, hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn như du lịch biển, hàng hải,… phát triển một số ngành kinh tế mới trên cơ sở tận dụng thành tựu cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) như năng lượng gió, công nghệ sinh học biển...
Nền tảng cho kinh tế biển là các nguồn tài nguyên thiên nhiên và hệ thống sinh thái hoạt động như vốn tự nhiên của kinh tế biển (vốn biển tự nhiên). Vốn biển tự nhiên bao gồm: (i) Tài nguyên sống (trữ lượng tái tạo) được thu hoạch để sử dụng, chẳng hạn như thủy sản; (ii) Tài nguyên không tái tạo (không thể tái sinh) được khai thác để sử dụng, như khoáng sản biển; và (ii) Các hệ sinh thái cùng quá trình của hệ sinh thái bao gồm sự tương tác giữa môi trường sống và không sống như một đơn vị chức năng (hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng ngập mặn,...).
Trước khi có đại dịch COVID-19, tổng hợp nhận định của một số tổ chức quốc tế, chuyên gia đối với kinh tế đại dương toàn cầu khi thực hiện các phương thức phát triển kinh tế biển xanh (Hình 01), thì đến 2030 (so với trước năm 2015), khách du lịch, dầu khí và nuôi trồng hải sản sẽ tăng gấp 2 lần, vận tải đường biển (bao gồm cả logistic) tăng gấp 4 lần, điện gió ngoài khởi sẽ tăng gấp 40 lần. Ngành Khai thác thủy hải sản gần như đạt đến trạng thái bão hòa. Ngoài ra các hoạt động bảo tồn, bảo vệ rừng ngập mặn, cải tạo kết cấu hạ tầng ven biển sẽ góp phần tạo rao nhiều việc làm và thúc đẩy tăng trưởng.
Hình 01. Ước tính tốc độ tăng trưởng một số lĩnh vực đến năm 2030 so với năm 2015
Các nguồn: (OECD 2012, 2013)
3. Kinh nghiệm quốc tế về phục hồi kinh tế biển xanh trong bối cảnh đại dịch COVID-19
Hiện nay, dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và chuỗi cung ứng trên toàn cầu. Ước tính rằng hoạt động vận chuyển hàng hải đã giảm tới 30% ở một số khu vực và hoạt động đánh bắt cá đã giảm tới 80% ở Trung Quốc và Tây Phi. Tác động đến du lịch trên toàn cầu có thể dẫn đến lượng khách du lịch giảm 20-30% và theo Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế, số chuyến bay trên toàn thế giới giảm 80%. Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới tính toán rằng có tới 75 triệu việc làm trong lĩnh vực du lịch và lữ hành hiện đang gặp rủi ro và thiệt hại hơn 2 nghìn tỷ USD (Mc.Kinsey, 2020). Bên cạnh việc thực hiện các biện pháp phòng dịch theo các khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới, thì biện pháp nổi bật nhất để phục hồi kinh biển xanh ở các quốc gia là cung cấp các khoản tiền hỗ trợ, biện pháp tài chính đến người dân và doanh nghiệp.
Tính đến tháng 6-2020, ở giai đoạn đầu chống dịch COVID-19, nhiều quốc gia đã tung ra các gói tài chính ứng phó khẩn cẩn với tình hình dịch bệnh với tổng số lên tới 10 nghìn tỷ USD trên khắp toàn cầu; hầu hết ưu tiên cứu mạng sống và bảo vệ sinh kế với lượng tiền được chuyển trực tiếp đến người dân, hộ gia đình và những người ở tuyến đầu chống dịch. Ưu tiên hàng đầu của các quốc gia phát triển là tiêm phòng vắc xin cho ít nhất 70% dân số và cung cấp thuốc điều trị bệnh, đồng thời có các ưu đãi để không làm gián đoạn chuỗi sản xuất (Hinh T.Dinh, 2021). Đối với kinh tế biển, các cộng đồng ven biển, những người trong các ngành, nghề kinh tế biển, doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa đã ít nhiều được hỗ trợ nhằm đảm bảo chuỗi cung ứng hoạt động và cung cấp các mặt hàng thiết yếu.
Tổng kích thích tài khóa |
Hình 02. Một số quốc gia đã công bố gói kích thích tài khóa để phục hồi kinh tế
Nguồn: (McKinsey 2020)
Ở giai đoạn thứ hai, nhiều quốc gia G20 tập trung vào các biện pháp thúc đẩy sự phục hồi nền kinh tế trong dài hạn như: gỡ bỏ phong tỏa, thực hiện các gói kích cầu, đa dạng hóa các ngành, lĩnh vực để giảm thiểu các cú sốc tương tự trong tương lai,… Phân tích từ McKinsey (2020) cho thấy các quốc gia G20 đã công bố các biện pháp tài khóa trung bình 11% GDP, ước tính gấp 3 lần đối với cuộc khủng hoảng năm 2008 - 2009. Hoa Kỳ đã công bố gói tài khóa lớn nhất, tiếp theo là Nhật Bản và Liên minh châu Âu (Hình 02). Một số lượng tiền nhất định thông qua các biện pháp tài khóa đã được dành cho phát triển kinh tế biển và chuyển đổi sang kinh tế biển xanh (Bảng 01).
Bảng 01. Một số quốc gia đã công bố biện pháp tài khóa kinh tế biển xanh (McKinsey 2020)
Quốc gia |
Biện pháp tài khóa kinh tế biển xanh |
Mỹ |
Theo Đạo luật Viện trợ, Cứu trợ và An ninh kinh tế đối với Coronavirus, Chính phủ Mỹ đã tiến hành phân bổ 300 triệu USD kinh phí hỗ trợ nghề cá cho các bang, bộ lạc và vùng lãnh thổ có những người tham gia đánh bắt cá ven biển và biển bị ảnh hưởng tiêu cực bởi COVID-19 (NOAA, 2020). |
Canada |
Khoản hỗ trợ trị giá 62,5 triệu USD sẽ được cung cấp cho lĩnh vực chế biến cá và hải sản thông qua Quỹ Bình ổn Thủy sản Canada và 75 triệu USD được dành cho việc giảm phát thải dầu khí ngoài khơi. Nguồn vốn 469,4 triệu đô la USD sẽ được sử dụng để thiết lập Quyền lợi Người thu hoạch cá mới. Chương trình được thiết kế để hỗ trợ lương mang tính thời vụ của lĩnh vực đánh bắt cá. Chương trình nhận hồ sơ từ ngày 24-8 đến ngày 21-9-2020 (theo Cơ quan Thủy sản và Đại dương Canada 2020). |
Anh |
Chính phủ đã giới thiệu Chương trình hỗ trợ chống gián đoạn thủy sản trị giá 23 triệu bảng. Ngoài ra, 100 triệu bảng được dành cho các khu vực nghề cá để tối đa hóa các cơ hội phát sinh từ việc Anh thực hiện Chính sách nghề cá chung của EU với tư cách là một quốc gia ven biển độc lập. |
Ủy ban Châu Âu |
Đối với các mục tiêu về khí hậu, Thỏa thuận Xanh dành khoảng 225 tỷ Euro cho quỹ phục hồi và 322 tỷ Euro trong ngân sách 2021 - 2027. Các mục tiêu trong Thỏa thuận Xanh về hệ thống thực phẩm bao gồm giảm việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu gây ô nhiễm môi trường biển. Ủy ban Châu Âu đã đưa lượng khí thải CO2 của lĩnh vực hàng hải vào Hệ thống Thương mại Khí thải của EU (ETS) với mục tiêu giảm 40% CO2 vào năm 2030. Ủy ban Môi trường của Ủy ban châu Âu kêu gọi "Quỹ Đại dương" trong giai đoạn 2023 - 2030 hỗ trợ đối với ngành hàng hải để các con tàu sử dụng năng lượng hiệu quả hơn và hỗ trợ cơ sở hạ tầng xanh. |
Đức |
Sáng kiến Khí hậu Quốc tế của Đức sẽ chi 68 triệu Euro để hỗ trợ 29 dự án (ở 25 quốc gia) ứng phó với COVID tập trung vào xây dựng khả năng chống chịu về kinh tế, xã hội và sinh thái trong tương lai và tìm cách ngăn chặn một đại dịch mới. Sáng kiến này nhằm mục đích đầu tư vào sự phục hồi bền vững của nền kinh tế (tăng cường khả năng chống chịu với khí hậu của ngành đánh cá) để góp phần giảm thiểu biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học. |
Na Uy |
Chính phủ dự kiến dành khoảng 3,6 tỷ NOK từ ngân sách để hỗ trợ các dự án công nghệ xanh mang lại lợi ích cho việc phát triển điện gió ngoài khơi và vận tải biển ít phát thải. Ngoài ra một “gói chuyển đổi kinh tế biển xanh” (384,5 triệu đô la Mỹ) sẽ được sử dụng để hỗ trợ một loạt các sáng kiến như xây dựng cơ sở hạ tầng gió ngoài khơi khi Na Uy mong muốn góp phần đạt được mục tiêu của Thỏa thuận Paris về hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu dưới 2 độ C vào năm 2050. |
Ý |
Lập quỹ viện trợ trị giá 100 triệu Euro để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Quỹ sẽ viện trợ để duy trì hoạt động của các lĩnh vực này thông qua bảo lãnh của nhà nước đối với các khoản vay đầu tư và vốn lưu động, cũng như các khoản tài trợ trực tiếp để cung cấp hỗ trợ trong thời gian tạm thời ngừng các hoạt động đánh bắt. |
Phần Lan |
Ngân sách bổ sung trị giá 5,5 tỷ Euro bao gồm một gói các biện pháp hỗ trợ phục hồi và phục hồi nền kinh tế với trọng tâm là bền vững, bao gồm: 13,1 triệu Euro để phục hồi các địa điểm tự nhiên do nhà nước quản lý và phát triển du lịch thiên nhiên. 53 triệu Euro cho các dự án liên quan đến mảng xanh, dịch vụ nước và bảo tồn rừng. Kinh phí cũng được đề xuất để phục hồi các khu vui chơi giải trí tại địa phương. 20,75 triệu Euro hỗ trợ đổi mới đóng tàu. 05 triệu Euro cho thiết kế tàu trong dự án thay thế ba tàu tuần tra xa bờ bằng các tàu có khả năng ứng phó với sự cố tràn dầu và hóa chất. Quỹ khí hậu quốc gia đã được thỏa thuận trước đó sẽ được vốn hóa 300 triệu Euro. Quỹ sẽ tập trung vào việc chống lại biến đổi khí hậu, thúc đẩy số hóa và các hoạt động các-bon thấp trong sản xuất. |
Ấn Độ |
Chính phủ sẽ huy động đầu tư khoảng 2,7 tỷ USD trong 5 năm tới để mang lại cuộc cách mạng kinh tế biển xanh thông qua phát triển bền vững và có trách nhiệm của ngành thủy sản. |
Úc |
Ở cấp chính quyền địa phương, Chính quyền bang Victoria đã hỗ trợ 129 triệu đô la Úc để hỗ trợ, nâng cấp các kết cấu hạ tầng năng lượng mặt trời, giải quyết nguy cơ xói mòn và lũ lụt ở các khu vực ven biển; chính quyền bang Queensland đã cam kết cung cấp 17 triệu đô la Úc để tạo ra một cơ sở đào tạo năng lượng tái tạo cũng như hỗ trợ 8,93 triệu đô la Úc cho các công viên quốc gia (bao gồm các công viên ven biển và biển quan trọng) để nâng cấp và cải tiến kết cấu hạ tầng cho du khách nhằm kích thích hoạt động du lịch dựa vào thiên nhiên. |
Thái Lan |
Chính phủ cung cấp các gói hỗ trợ dành cho doanh nghiệp du lịch từ Ngân hàng Krungthai, Ngân hàng Tiết kiệm Chính phủ. Một số ngân hàng có chính sách tạm dừng thu tiền gốc và lãi các khoản vay trong vòng 6 tháng. Bộ Tài chính Thái Lan cũng sẽ giảm thuế nhiên liệu hàng không từ 4,726 baht/lít xuống 0,20 baht/ lít và tạm ngừng thu thuế thu nhập doanh nghiệp trong vòng 6 tháng cho các doanh nghiệp du lịch. Trong khi Bộ Giao thông vận tải nước này sẽ giảm các khoản phí hạ cánh. Uỷ ban Trợ giúp Du lịch được thành lập để tham mưu giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục nhập cảnh và các chuyến bay thuê chuyến (charter flight) đến các địa điểm du lịch. |
Nghiên cứu về sự phục hồi kinh tế biển xanh trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Ủy ban cấp cao về kinh tế đại dương bền vững cho rằng để có thể phục hồi bền vững và chịu được các cú sốc tương tự trong tương lai thì ngay bây giờ cần tập trung đầu tư vào 5 lĩnh vực ưu tiên: (1) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thoát nước và nước thải cho các cộng đồng ven biển; (2) Đầu tư phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái biển và ven biển; (3) Đầu tư cho cộng đồng phát triển nuôi trồng thủy sản; (4) Hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo bền vững ở biển; (5) Hỗ trợ phát triển vận tải biển không phát thải.
4. Kiến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam giai đoạn 2022 - 2025
Bối cảnh kinh tế thế giới giai đoạn 2021 - 2025 được dự báo là khó khăn và bất định hơn nhiều so với giai đoạn 2016 - 2020. Dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia, gây ảnh hưởng sâu rộng, để lại hậu quả nặng nề. Những tháng đầu năm 2021, kinh tế thế giới đã có những dấu hiệu phục hồi, đặc biệt tại các nước phát triển, nơi đã có độ bao phủ vắc xin tương đối cao. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của những biến chủng mới khiến cho tình hình dịch bệnh COVID-19 lại quay trở lại phức tạp, diễn biến nhanh, khó lường tại nhiều quốc gia, khu vực và vẫn chưa xác định được thời điểm kết thúc. Bên cạnh đó tình hình Biển Đông tiềm ẩn nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung cũng như hoạt động của các ngành kinh tế biển, các địa phương có biển. Những tác động tiêu cực này buộc các nước trên thế giới và khu vực ASEAN vừa phải xác định các nhiệm vụ, giải pháp trước mắt để giải quyết những vấn đề ngắn hạn, giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực, vừa có giải pháp mang tính lâu dài để đạt các mục tiêu kinh tế - xã hộivà bảo vệ môi trường đề ra.
Trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế và bối cảnh nêu trên, theo tinh thần các Nghị quyết số 31/2021/QH15, số 43/2022/QH15 của Quốc hội và Chỉ thị số 31/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các ý kiến góp ý của chuyên gia, nhà khoa học đối với phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam, chúng tôi kiến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam giai đoạn 2022 - 2025 trong bối cảnh thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 như sau:
Về quan điểm, phương hướng thực hiện:
- Phát triển bền vững kinh tế biển theo mô hình kinh tế biển xanh; bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, giữa lợi ích của địa phương có biển và địa phương không có biển; phát huy tiềm năng, lợi thế của các nguồn vốn biển tự nhiên, tạo động lực phát triển kinh tế đất nước; thúc đẩy hợp tác công tư trong phát triển kết cấu hạ tầng.
- Ủy ban chỉ đạo quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 giữ vai trò chính trong việc giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo thống nhất, phối hợp giải quyết những công việc quan trọng, liên ngành liên quan đến phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam; trước mắt tập trung vào 3 khâu đột phá[4] được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW.
- Các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển kinh tế biển phải thực hiện nghiêm túc các quy định, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cần tăng cường liên kết, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Lựa chọn, xác định các đề án, dự án ưu tiên để tập trung đầu tư, tạo động lực thực sự cho phát triển bền vững kinh tế biển.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển sớm thành lập, kiện toàn Ban Chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển tại địa phương; tập trung nguồn lực phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ mạng lưới giao thông kết nối các vùng có biển và không có biển, nâng cao hạ tầng xã hội nhằm tạo nền tảng phát triển kinh tế biển.
Về các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong giai đoạn 2022 - 2025:
Giai đoạn 2022 - 2025 là giai đoạn tạo nền tảng, cơ sở để thực hiện tốt các quan điểm, mục tiêu, chủ trương lớn và các giải pháp đề ra Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; ưu tiên vào các lĩnh vực ít bị tác động bởi COVID-19 và tránh làm gián đoạn chuỗi cung ứng. Bên cạnh chiến lược tiêm đủ 2 mũi vắc xin, Nhà nước có chính sách linh hoạt về nhập cảnh cho khách quốc tế để thúc đẩy phát triển du lịch, thúc đẩy thương mại quốc tế; tiếp tục kéo dài các chính sách cấp bách hỗ trợ có mục tiêu đối với doanh nghiệp (như lãi suất vay 3-5%/năm, hỗ trợ tiền điện, nước…). Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng trong năm 2022 đối với các nhóm hàng hóa thủy sản đang áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 10% (còn 8%) Mục tiêu, phương hướng trong giai đoạn 2022 - 2025 là:
(i) Quản trị biển, quản lý vùng bờ: Hình thành cơ bản hành lang pháp lý về đổi mới, phát triển mô hình kinh tế biển xanh và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong phát triển kinh tế biển. Tăng cường phối hợp công tác trong xây dựng Quy hoạch không gian biển quốc gia (trình Quốc hội thông qua) và Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ (trình Chính phủ thông qua).
(ii) Phát triển các ngành kinh tế biển, ven biển và các vùng biển: Phấn đấu đạt mục tiêu Nghị quyết số 36- NQ/TW đề ra, cụ thể các ngành kinh tế thuần biển đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 - 70% GDP cả nước. Nghiên cứu thành lập Quỹ (hoặc Chương trình) kinh tế biển xanh để ưu tiên đầu tư phục hồi các ngành, nghề và khu vực kinh tế ven biển. Tuân thủ các quy định trong phòng chống dịch COVID-19 lây lan; ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ven biển, phòng, chống sạt lở bờ biển, tăng sức chống chịu với các tác động của biến đổi khí hậu và tạo cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển.
Ngành du lịch với ngành y tế nghiên cứu thí điểm đón khách du lịch quốc tế và trong nước (đã tiêm đủ 2 mũi vắc xin, thậm chí 3 mũi vắc xin) để nhân rộng ra các khu vực khác.
Để phát triển khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản, cần hỗ trợ có mục tiêu nhằm bảo đảm không làm gián đoạn chuỗi cung ứng trong nước và quốc tế. Các lô hàng thủy sản xuất khẩu được khử khuẩn, bảo quản tránh khỏi vi-rút Corona xâm nhập. Thực hiện tốt các khuyến nghị của Ủy ban châu âu (EC) về khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) để sớm được EC gỡ bỏ thẻ vàng.
Về phát triển điện gió ven bờ và ngoài khơi, ngành công thương phối hợp với ngành y tế nghiên cứu tiêm đủ vắc xin, cấp phép các chuyên gia quốc tế, công nhân tay nghề cao được phép vào Việt Nam làm việc. Hoàn thiện Quy hoạch điện 8 phù hợp với các tuyên bố của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế về biến đổi khí hậu.
(iii) Quản lý hiệu quả các nguồn vốn biển tự nhiên và ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu: Điều tra đánh giá được tiềm năng một số nguồn vốn biển tự nhiên, đặc biệt là năng lượng tái tạo ở biển; Thiết lập cơ sở chính sách cho khai thác, bảo vệ các tài nguyên biển; Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; Giảm đáng kể ô nhiễm môi trường biển; tiên phong khu vực về xây dựng và thực hiện các chính sách giảm thiểu chất thải nhựa đại dương; Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, quan trắc môi trường biển, biến đổi khí hậu đạt trình độ ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực.
(iv) Nâng cao đời sống cho nhân dân: Chỉ số phát triển con người (HDI) và thu nhập bình quân đầu người của các địa phương ven biển cao hơn mức trung bình của cả nước. Các đảo có người dân sinh sống có hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản đầy đủ, đặc biệt là điện, nước ngọt, thông tin liên lạc, y tế, giáo dục...
-----------------------[1] Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan thường trực của Ủy ban chỉ đạo quốc gia (mà Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam làm nhiệm vụ Văn phòng Cơ quan thường trực), có trách nhiệm tham mưu giúp Ủy ban một số vấn đề quan trọng sau: (i) Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển; (ii) Kiến nghị, đề xuất phương án giải quyết các vấn đề, vướng mắc giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển; (iii) Tổ chức thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 5-3-2020 của Chính phủ về Kế hoạch tổng thể và Kế hoạch 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; (iv) Huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế để hỗ trợ việc thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển.
[2] Ủy ban cấp cao về phát triển bền vững kinh tế dại dương được thành lập tháng 9-2018 là một sáng kiến độc đáo của 14 nguyên thủ các quốc gia biển và quốc đảo (Bồ Đào Nha, Ca-na-đa, Chi-lê, Fi-ji, Ga-na, In-đô-nê-xi-a, Ja-mai-ca, Kê-ny-a, Na-Uy, Nhật Bản, Na-mi-bi-a, Mê-xi-cô, Pa-lau, Úc) để cùng nhau hướng tới một nền kinh tế đại dương bền vững. Ước tính 14 quốc gia biển này chiếm gần 40% đường bờ biển, 30% vùng đặc quyền kinh tế, 20% đội tàu vận tải biển, 20% sản lượng nghề cá trên toàn cầu https://oceanpanel.org/about#panel
[3] Tháng 11-2018, khái niệm “kinh tế biển xanh” lần đầu tiên được Trung Quốc và ASEAN ghi nhận và đề cập trong Tầm nhìn về quan hệ đối tác chiến lược ASEAN - Trung Quốc 2030. Tháng 7-2019, Trung Quốc đã tích cực thúc đẩy hợp tác kinh tế biển với ASEAN và đề nghị cùng ra Tuyên bố chung về chủ đề này tại Hội nghị cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 22 tại Thái Lan vào tháng 11-2019; tuy nhiên, do nội hàm chưa rõ ràng và phạm vi bao quát rộng nên các nước ASEAN chưa nhất trí với đề xuất của Trung Quốc. Tháng 9-2019, Trung Quốc đã chủ động xây dựng Dự thảo Tuyên bố chung về xây dựng quan hệ đối tác ASEAN-Trung Quốc về kinh tế biển xanh (Joint Statement on Building ASEAN - China Partnership on Blue Economy), tập trung vào các nội dung: (i) Quy hoạch không gian biển; (ii) Bảo vệ sinh thái biển; (iii) Công nghiệp trên biển; (iv) Đổi mới, sáng tạo công nghệ biển; (v) Du lịch biển và; (vi) Hợp tác giữa các viện nghiên cứu chính sách và khoa học.
[4] 3 khâu đột phá được nêu tại Nghị quyết số 36-NQ/TW: (1) Hoàn thiện thể chế phát triển bền vững kinh tế biển, ưu tiên hoàn thiện hành lang pháp lý, đổi mới, phát triển mô hình tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển, các vùng biển, ven biển; hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất về biển. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung và lập mới các quy hoạch liên quan đến biển, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ giữa các ngành, địa phương. (2) Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, khoa học - công nghệ mới, thu hút chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu, nhân lực chất lượng cao. (3) Phát triển kết cấu hạ tầng đa mục tiêu, đồng bộ, mạng lưới giao thông kết nối các trung tâm kinh tế lớn của cả nước, các khu công nghiệp, khu đô thị, các vùng biển với các cảng biển dựa trên hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, kết nối chiến lược Bắc - Nam, Đông - Tây giữa các vùng trong nước và với quốc tế.
Thế kỷ châu Phi - sự thần kỳ mới của thế giới  (09/04/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay