Quảng Ninh bảo đảm an sinh xã hội góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
TCCS - Bảo đảm an sinh xã hội là một chủ trương, nhiệm vụ lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là chìa khóa để phát triển toàn diện, bền vững. Thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã có nhiều chính sách, chương trình hành động hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, trong đó nguồn lực cho công tác an sinh xã hội được chú trọng quan tâm.
Vai trò của an sinh xã hội đối với thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội
An sinh xã hội và bảo đảm an sinh xã hội là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của mỗi địa phương và đất nước. Ở Việt Nam, an sinh xã hội được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm để hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” xác định, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân.
Đại hội XII của Đảng cũng xác định, an sinh xã hội là một hệ thống chính sách và giải pháp nhằm bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu rõ, đẩy mạnh an sinh xã hội gắn liền với tăng cường quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, cụ thể: quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững trên cơ sở phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bổ sung, phát triển, làm rõ hơn nhận thức mới về anh sinh xã hội, chính sách xã hội trong bối cảnh tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới. Hội nghị đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, trong đó tiếp tục khẳng định, chính sách xã hội là chính sách đối với con người, vì con người. Quan điểm này của Đảng đã mở rộng ra toàn bộ chính sách xã hội khác. Việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước đóng vai trò nòng cốt và chủ yếu chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đi đôi phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, thị trường, các tổ chức xã hội và ý chí tự lực, tự cường của người dân như lời phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(1).
Về xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm xã hội tự nguyện được xem là công cụ để cải thiện điều kiện sống và làm việc của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là những người trong hoàn cảnh khó khăn và những người yếu thế.
Về kinh tế, an sinh xã hội được xem là công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội, phân phối được thực hiện theo chiều dọc và theo chiều ngang. Theo chiều ngang, phân phối lại giữa người khỏe mạnh với người không may bị đau ốm, tai nạn; giữa các nhóm dân cư. Theo chiều dọc, phân phối lại giữa người giàu với người nghèo; giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Trong xu hướng toàn cầu hóa, công cụ này ngày càng được coi trọng, bởi khoảng cách giàu nghèo đã và đang có xu hướng ngày càng gia tăng.
Như vậy, có thể khẳng định, an sinh xã hội vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. An sinh xã hội góp phần bảo vệ mỗi thành viên trong cộng đồng, đặc biệt là những người gặp rủi ro hoặc rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Qua đó, mọi thành viên trong xã hội có điều kiện vươn lên, có cơ hội làm việc nhằm cải thiện thu nhập, bảo đảm đời sống. Đây cũng là nhân tố tạo động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Thực trạng thực hiện an sinh xã hội tại tỉnh Quảng Ninh
Theo số liệu thống kê mới nhất, 6 tháng đầu năm 2024, tổng kinh phí thực hiện an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ước đạt 1.144 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ. Tỉnh Quảng Ninh đã về đích sớm hơn 2 năm chương trình xây dựng nông thôn mới ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Bình Liêu là huyện dân tộc, miền núi, biên giới đầu tiên của cả nước đạt chuẩn nông thôn mới; Tiên Yên, Đầm Hà là 2 huyện đầu tiên trong cả nước đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao theo tiêu chí của giai đoạn 2021 - 2025. Ước 6 tháng đầu năm, toàn tỉnh giảm 121/246 hộ nghèo, bằng 49,19% kế hoạch năm; giảm 828 hộ cận nghèo, bằng 69% kế hoạch năm…
Trước đó, trong giai đoạn 2020 - 2022, tổng chi cho an sinh, phúc lợi xã hội trên địa bàn tỉnh đạt hơn 6.000 tỷ đồng; trong năm 2023 đã có khoảng 1.400 tỷ đồng được tỉnh Quảng Ninh chi cho công tác an sinh xã hội, tập trung vào các chính sách việc làm, nhà ở, nước sạch sinh hoạt, đào tạo nghề, giáo dục, y tế, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, bảo hiểm, nâng cao đời sống của người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, trẻ mồ côi...
Để có được kết quả trên, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách riêng về an sinh, phúc lợi xã hội và ưu tiên bố trí nguồn lực lớn cho các vùng đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, yếu thế. Tỉnh đã phân bổ 300 tỷ đồng để triển khai cho vay vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo. Đến nay, toàn tỉnh có 4.157 lượt hộ dân khu vực này được vay vốn, với tổng dư nợ 299,5 tỷ đồng. Bằng nguồn vốn vay, người dân đã triển khai nhiều mô hình phát triển kinh tế hiệu quả, như: Trồng rừng, trồng trà hoa vàng, chăn nuôi gia cầm, nuôi, trồng thủy sản… Từ đó, giải quyết việc làm cho 5.000 lao động địa phương, thu nhập của người dân đạt 73,348 triệu đồng/người/năm, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển. Tỉnh có chính sách hỗ trợ bảo hiểm y tế cho đối tượng thuộc hộ cận nghèo, hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp có mức sống trung bình trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2024 - 2025. Theo đó, người thuộc hộ cận nghèo theo chuẩn hộ cận nghèo theo quy định tại Nghị quyết số 13/2023/NQ-HĐND về nghèo đa chiều áp dụng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2023 - 2025 sẽ được hỗ trợ thêm 30% mức đóng bảo hiểm y tế ngoài mức hỗ trợ của Chính phủ; người thuộc hộ gia đình nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp có mức sống trung bình theo chuẩn hộ có mức sống trung bình giai đoạn 2022 - 2025 được hỗ trợ thêm 30% mức đóng bảo hiểm y tế ngoài mức hỗ trợ của Chính phủ. Theo đánh giá của Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, những cơ chế, chính sách nêu trên là bước cụ thể hóa để hoàn thành cao nhất chỉ tiêu “tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95%” mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra. Đồng thời, cũng là giải pháp tăng tỷ lệ và hoàn thành chỉ tiêu bao phủ bảo hiểm y tế đến năm 2025 theo Nghị quyết số 131/NQ-HĐND, ngày 9-12-2022, của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Với những kết quả đạt được, tỉnh Quảng Ninh tiếp tục triển khai hiệu quả các nghị quyết về các lĩnh vực y tế, giáo dục; đầu tư kết cấu hạ tầng đô thị, nông thôn mới kiểu mẫu; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao... Từ đó, tạo tiền đề vững chắc, bảo đảm công tác an sinh xã hội, tập trung cải thiện, nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, tạo động lực cho phát triển bền vững.
Một số hàm ý chính sách
Thứ nhất, chú trọng nâng cao chất lượng an sinh xã hội, bảo đảm nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân. Chú trọng gắn kết chặt chẽ giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển con người; bảo đảm an sinh, phúc lợi, tiến bộ và công bằng xã hội, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần.
Thứ hai, xây dựng các chính sách xã hội bảo đảm tính bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội phát triển.
Thứ ba, triển khai đồng bộ các giải pháp giảm nghèo bền vững, hướng tới thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng gắn kết với doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình đào tạo nghề. Mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần được sắp xếp theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu quả, ưu tiên phát triển một số trường chất lượng cao, nghề trọng điểm…
-----------------------
(1) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Phát huy trí tuệ, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, thảo luận, hoàn thiện các báo cáo, đề án để xem xét, quyết định những vấn đề trọng đại, có ý nghĩa rất quan trọng của nhiệm kỳ Đại hội XIII”, Tạp chí Cộng sản số 1024, tháng 10-2023
Huyện Bình Liêu đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng chính quyền số, chính quyền điện tử  (10/11/2024)
Huyện Bình Liêu: Tích cực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc  (05/11/2024)
Bình Liêu chú trọng phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số  (02/11/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay