Hà Nội phát triển kinh tế nông nghiệp theo chuỗi giá trị
TCCS - Phát triển mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị nông nghiệp là mô hình mang lại nhiều lợi ích không chỉ cho doanh nghiệp, người sản xuất, mà người tiêu dùng cũng được hưởng lợi thông qua việc được tiếp cận các nông sản an toàn với giá cả cạnh tranh. Sự phát triển của nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị cho thấy vai trò quan trọng của việc liên kết sản xuất, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển quy mô sản xuất lớn, hiện đại hóa nông thôn.
Các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị nông nghiệp
Liên kết theo chuỗi giá trị nông nghiệp đóng góp vai trò quan trọng trong việc thay đổi cách thức phát triển nền nông nghiệp theo hướng gắn với nhu cầu thị trường, sản xuất theo kế hoạch dựa trên các dự báo về nhu cầu thị trường. Mô hình liên kết theo chuỗi giá trị nông nghiệp tập hợp nhiều nông dân có quy mô sản xuất nhỏ thành quy mô lớn, sản xuất theo hướng tăng khả năng cạnh tranh và đàm phán trên thị trường, góp phần hình thành những vùng nguyên liệu ổn định, quy mô sản lượng cao, chất lượng sản phẩm đồng đều. Đồng thời, thay đổi những điểm yếu của người nông dân, như tập quán sản xuất nhỏ lẻ, quy trình canh tác tự do.
Hiện nay, có ba hình thức liên kết chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp là liên kết tiêu thụ sản phẩm qua hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông hộ; liên kết có hỗ trợ đầu tư và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với nông hộ; liên kết theo chuỗi giá trị khép kín. Trong đó, hình thức liên kết tiêu thụ sản phẩm qua hợp đồng giữa doanh nghiệp với nông hộ khá phổ biến. Đây là kiểu liên kết dọc giữa doanh nghiệp và nông hộ. Với hình thức liên kết này, hợp đồng được ký ở đầu vụ và ấn định thời điểm sản xuất, giao hàng, số lượng, yêu cầu chất lượng và giá thành sản phẩm. Doanh nghiệp có thể cung cấp tín dụng, cung ứng vật tư, máy móc, tư vấn kỹ thuật cho nông hộ, nhưng doanh nghiệp cũng có quyền từ chối mua sản phẩm không đạt chất lượng. Về bản chất, mô hình liên kết này tích hợp nông hộ vào chuỗi giá trị trên phạm vi toàn vùng, toàn quốc và thậm chí toàn cầu khi có sự tham gia của các tập đoàn đa quốc gia.
Xu hướng liên kết 4 nhà trong phát triển nông nghiệp cũng ngày càng được chú trọng. Nếu việc liên kết được thực hiện tốt sẽ khiến hiệu quả sản xuất và tiêu thụ được tăng cao. Trong đó, vai trò của người nông dân là sản xuất, tuy nhiên, đa số nông dân vẫn quen với phương thức sản xuất nhỏ lẻ, chưa quen với tư duy sản xuất lớn. Một số bộ phận nông dân vẫn còn hạn chế về nhận thức dẫn tới vi phạm hợp đồng lao động.
Doanh nghiệp đóng vai trò liên kết cho các nhà còn lại, được coi là trung gian giữa 3 nhà để hình thành cung nhiên liệu sản xuất, hỗ trợ và phổ biến khoa học, công nghệ. Tuy nhiên, hiện nay nhiều nhà đầu tư vẫn còn ngần ngại bỏ tiền ra để đầu tư vào nông nghiệp bởi vì rủi ro cao. Có nhiều nguyên do rủi ro như thiên tai hay các nguyên nhân khác, nông dân không trả được nợ doanh nghiệp và tình trạng vay vốn bị kéo dài. Thời gian nợ ngân hàng lâu sẽ làm cho lãi xuất tăng và làm ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế của các doanh nghiệp.
Nhà khoa học có vai trò cung cấp đầu vào chất lượng cao cho nông dân với chi phí rẻ, hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm cải tiến năng suất cũng như chất lượng sản phẩm. Nhưng hiện nay việc liên kết trực tiếp từ nhà khoa học với nhà nông còn gặp nhiều khó khăn.
Nhà nước là nhân tố quan trọng, có vai trò tạo điều kiện thuận lợi để 3 nhà còn lại liên kết tốt được với nhau. Tạo ra các cơ chế hợp lý để khuyến khích các nhà liên kết theo chuỗi giá trị xuyên suốt trong thực hiện quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; giải quyết ổn thỏa những tranh chấp giữa các nhà; tạo môi trường thuận lợi cũng như có khả năng dự báo thị trường đầu ra…
Mục tiêu phát triển liên kết theo chuỗi giá trị nông nghiệp của Hà Nội
Đánh giá về những kết quả đạt được trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, Chương trình số 04-CTr/TU, ngày 17-3-2021, của Thành ủy Hà Nội, “Về đẩy mạnh thực hiện hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân giai đoạn 2021 - 2025” khẳng định, trong cơ cấu lại ngành nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp của Thủ đô tiếp tục phát triển, tăng trưởng. Cơ cấu giá trị sản xuất năm 2020 là: Trồng trọt, lâm nghiệp 38,76%; chăn nuôi, thủy sản 58,11%; dịch vụ nông nghiệp 3,13%. Thành phố cũng hoàn thành công tác dồn điền đổi thửa, cơ bản cấp xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân (đạt 99,21%), có 141 chuỗi liên kết an toàn thực phẩm, 164 mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; giá trị sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao chiếm 32% tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, việc thực hiện Quyết định số 3629/QĐ-UBND, ngày 8-7-2019, của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, “Về việc ban hành kế hoạch triển khai thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm” bước đầu mang lại những kết quả nhất định.
Phát huy những kết quả đạt được, thành phố tiếp tục đề ra những mục tiêu trong cơ cấu lại ngành nghề nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025. Mục tiêu này được đề cập cụ thể trong Kế hoạch số 227/KH-UBND, ngày 11-10-2021, của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, thực hiện chương trình số 04-CTr/TU. Theo đó, Hà Nội đề ra các mục tiêu, gồm:
Một là, tăng trưởng sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản hằng năm từ 2,5% đến 3%; Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt trên 70%.
Hai là, triển khai có hiệu quả Quyết định số 255/QĐ-TTg, ngày 25-2-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025”.
Ba là, thành phố đánh giá, phân hạng được 2.000 sản phẩm OCOP trở lên; triển khai Đề án “Trung tâm thiết kế sáng tạo và giới thiệu, quảng bá sản phẩm OCOP gắn với du lịch sinh thái của quốc gia tại Hà Nội”. Mỗi huyện, thị xã xây dựng ít nhất 1 trung tâm thiết kế sáng tạo, giới thiệu, quảng bá và bán sản phẩm OCOP, làng nghề gắn với du lịch.
Bốn là, thành phố công nhận thêm trên 50 làng nghề, nghề truyền thống; có ít nhất 100 làng nghề, nghề truyền thống được hỗ trợ xây dựng thương hiệu và xác nhận quyền sở hữu nhãn hiệu tập thể; 100% làng nghề, làng nghề truyền thống được công nhận thuộc danh mục được đánh giá tác động môi trường.
Năm là, phấn đấu có trên 80% hợp tác xã hoạt động hiệu quả.
Một số khuyến nghị
Những năm gần đây, ngành nông nghiệp Hà Nội đã chủ động thay đổi phương thức sản xuất theo hướng nâng cao chất lượng, tạo ra nhiều sản phẩm an toàn, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Trọng tâm là hỗ trợ các địa phương hình thành vùng sản xuất tập trung, quy mô lớn; thúc đẩy liên kết theo chuỗi, nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp. Cùng với đó là triển khai một số chính sách khuyến khích, hỗ trợ các loại hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp nông nghiệp phát triển, nâng tầm quy mô.
Để bắt kịp và thích ứng với những chuyển động cũng như xu thế phát triển của thị trường toàn cầu hóa, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, bền vững, yếu tố tiên quyết là đổi mới phương thức tổ chức sản xuất, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, muốn vậy thời gian tới Hà Nội cần tập trung làm tốt các vấn đề sau:
Thứ nhất, tạo nhận thức mới trong cán bộ và người dân về sự cần thiết phải sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, khắc phục dần tình trạng sản xuất tự phát theo phong trào, sản xuất không theo hợp đồng. Trước đây, cách tiếp cận mô hình chuỗi giá trị thường xuất phát từ chỉ đạo của chính quyền, thông qua các chương trình mục tiêu phát triển nông thôn, chưa chú trọng đến việc phải bắt nguồn từ chính yêu cầu của sản xuất, nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp. Vì vậy, mức độ hiệu quả của mô hình thực thi trên thực tế còn hạn chế. Thời gian tới, để việc liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị cần tiếp cận vấn đề từ góc độ chủ thể trực tiếp thực hiện và trực tiếp hưởng thụ lợi ích trong phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp.
Thứ hai, tăng cường truyền thông, quảng bá trên các phương tiện thông tin truyền thông về gương điển hình tiên tiến, các mô hình làm tốt để doanh nghiệp, hợp tác xã, người sản xuất, người tiêu thụ và các tầng lớp nhân dân tham quan, học tập. Song song với đó, cần có tổng kết các mô hình tốt, cách làm hay, có khả năng nhân rộng để triển khai, thực hiện nhằm đem lại hiểu quả trên diện rộng.
Thứ ba, đẩy mạnh thiết lập hệ sinh thái quản trị bền vững chuỗi giá trị. Theo đó, cấp ủy, chính quyền cấp xã cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về quy hoạch, vận động và tạo điều kiện cho người dân tham gia sản xuất tập trung theo quy hoạch. Phát huy vai trò của hợp tác xã nông nghiệp vì đây sẽ là đầu mối tiếp nhận ứng dụng khoa học, kỹ thuật và chuyển giao cho các thành viên hợp tác xã. Đơn vị chuyển giao ứng dụng khoa học, công nghệ cần được xác định là một mắt xích không thể tách rời trong chuỗi liên kết, chịu trách nhiệm cùng hợp tác xã hướng dẫn thành viên trong sản xuất, thu hoạch, chế biến và bảo quản để có sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của đơn vị phân phối tiêu thụ. Đơn vị phân phối, tiêu thụ sản phẩm cần làm tốt công tác dự báo thị trường tiêu thụ, yêu cầu rõ về số lượng, chất lượng, mẫu mã, bao bì sản phẩm để làm cơ sở cho đơn vị chuyển giao; hợp tác xã và người sản xuất áp dụng với công nghệ phù hợp nhằm tiết giảm chi phí sản xuất.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và chính sách hỗ trợ theo hướng rà soát, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Các chính sách và cơ chế liên quan tới sự phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và gỡ các nút thắt; tránh sự chồng chéo, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp và hợp tác xã khi thực hiện.
Thứ năm, tăng cường ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, tận dụng lợi thế của thành tựu cuộc Cách mạng công nghệ lần thứ tư, công nghệ sinh học, cơ giới hóa, tự động hóa, công nghệ na-nô, kinh tế tuần hoàn... trong quá trình sản xuất, sơ chế, đóng gói, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nhằm gia tăng giá trị sản xuất. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ nông nghiệp, tập trung vào các khâu giống, quy trình sản xuất, chế biến. Có chính sách đặc biệt ưu đãi cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, xanh, sạch, hữu cơ. Xây dựng, hoàn thiện và áp dụng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật. Tăng cường kiểm soát quản lý vùng trồng, vùng nuôi và vùng khai thác, đẩy mạnh thực hiện đánh mã số vùng trồng. Xây dựng hệ thống giám sát đánh giá vùng nuôi nhằm luôn bảo đảm các yêu cầu của thị trường, nhất là các tiêu chuẩn ngày càng cao của các nước nhập khẩu.
Thứ sáu, để duy trì sự liên kết giữa các bên tham gia chuỗi giá trị cần có sự ràng buộc về pháp lý và động lực từ lợi ích để phát triển chuỗi thông qua hợp đồng nhằm duy trì mối quan hệ hài hòa lợi ích. Bên cạnh việc sử dụng vốn đối ứng để nâng cao vai trò của các tác nhân trong chuỗi, cần tuyên truyền để người dân, hợp tác xã, doanh nghiệp hiểu được ý nghĩa của các chuỗi liên kết, lợi ích các bên trong chuỗi. Việc xây dựng, lựa chọn mô hình cần có sự cân nhắc trên cơ sở những tính toán khoa học và phù hợp với thực tiễn ngành, nghề, tâm lý, văn hóa, tập quán người dân. Ngoài ra, cần phân tích đầy đủ điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức trong việc lựa chọn phát triển các chuỗi giá trị, trên cơ sở đó hình thành các chuỗi liên kết thông qua hợp đồng giúp người dân và doanh nghiệp chủ động trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm./.
Quận Ba Đình phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở trong công tác phòng, chống và đẩy lùi dịch bệnh COVID-19  (29/08/2022)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Kinh tế di sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
- Giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá trị kinh tế di sản từ góc nhìn quản trị vùng và địa phương
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay