TCCS - Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm: Lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước. Trong bối cảnh chuyển đổi số đang trở thành xu thế tất yếu, là động lực chiến lược thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội nhanh và bền vững, giáo dục và đào tạo - lĩnh vực trực tiếp tạo dựng nguồn nhân lực, bồi dưỡng phẩm chất và năng lực con người - đứng trước yêu cầu cấp bách phải đổi mới toàn diện. Theo đó, việc phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo là nhiệm vụ cấp thiết và mang tính chiến lược, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Phòng thực hành giáo dục STEM của Trường Trung học cơ sở Cầu Giấy, quận Cầu Giấy_Ảnh: TTXVN

Chuyển đổi số và yêu cầu đặt ra đối với phát triển con người trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần vững chắc, động lực nội sinh quan trọng cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(1). Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng đổi mới sáng tạo, làm chủ công nghệ, thích ứng nhanh với sự biến đổi của thời đại số đang trở nên ngày càng cấp thiết.

Chuyển đổi số hiện không còn là lựa chọn mà đã trở thành xu thế tất yếu, một cấu phần trong mô hình phát triển mới của Việt Nam. Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chuyển đổi số vừa là động lực, vừa là công cụ, vừa là môi trường học tập, sáng tạo, phát triển của thế hệ công dân mới. Đặc biệt, trong và sau đại dịch COVID-19, việc học tập trực tuyến, mô hình lớp học thông minh, kho học liệu mở, giáo dục linh hoạt trên nền tảng số đã trở thành chiến lược dài hạn, không chỉ tại Việt Nam mà trên phạm vi toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, giáo dục và đào tạo với tư cách là một thiết chế văn hóa đặc biệt, cần khẳng định vai trò trung tâm trong việc kiến tạo và phát triển nguồn nhân lực số. Nhiệm vụ đặt ra không chỉ là đào tạo con người có kỹ năng công nghệ, mà quan trọng hơn là bồi dưỡng thế hệ công dân số vừa có năng lực đổi mới sáng tạo, vừa thấm nhuần giá trị văn hóa, đạo đức, tinh thần dân tộc và lý tưởng cách mạng. Đây chính là yêu cầu kết hợp biện chứng giữa “khoa học - công nghệ” và “giá trị - văn hóa”, giữa hiện đại hóa với giữ gìn bản sắc, mà Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh trong các văn kiện chiến lược.

Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo là một quá trình chuyển đổi tư duy toàn diện - từ tư duy giáo dục, thiết kế chương trình, phương pháp sư phạm đến cách thức quản trị nhà trường, quản trị hệ sinh thái học tập. Điều này đòi hỏi đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục và người học phải được trang bị năng lực số toàn diện, bao gồm năng lực sử dụng công nghệ, tư duy phản biện, khả năng hợp tác và thích ứng linh hoạt trong môi trường số.

Đặc biệt, trong điều kiện giáo dục hiện nay, phát triển năng lực công nghệ phải luôn đi đôi với phát triển chiều sâu văn hóa. Nếu nền giáo dục số hiện đại thiếu vắng nền tảng lý tưởng, đạo đức và bản sắc dân tộc, sẽ rất dễ dẫn tới xu hướng kỹ trị hóa, công cụ hóa con người - đào tạo nên những cá nhân thành thạo kỹ thuật nhưng thiếu định hướng giá trị, bản lĩnh chính trị và khả năng hội nhập bền vững.

Trong tiến trình phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, lĩnh vực giáo dục - đào tạo phải khẳng định vai trò tiên phong trong việc hình thành lớp người mới - những công dân số “vừa hồng vừa chuyên”, vừa làm chủ công nghệ hiện đại, vừa kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có năng lực cạnh tranh toàn cầu mà vẫn giữ vững bản sắc văn hóa Việt Nam. Đây không chỉ là một yêu cầu phát triển mang tính chiến lược, mà còn là sứ mệnh chính trị - tư tưởng mà toàn ngành giáo dục - đào tạo phải kiên quyết thực hiện trong giai đoạn hiện nay.

Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong giáo dục - đào tạo

Trải qua gần 40 năm đổi mới, đặc biệt từ sau khi triển khai Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020 và tiếp tục với Chiến lược giai đoạn 2021 - 2030, ngành giáo dục và đào tạo Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Hệ thống giáo dục ngày càng được mở rộng về quy mô, đa dạng về loại hình, từng bước tiếp cận với xu thế giáo dục hiện đại của khu vực và thế giới. Việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) trong giảng dạy, quản lý giáo dục được thúc đẩy mạnh mẽ, đặc biệt trong và sau đại dịch COVID-19 - thời điểm được xem như “cú huých” tạo bước ngoặt cho việc triển khai dạy học trực tuyến, phát triển học liệu số, hệ sinh thái học tập từ xa. Nhiều mô hình như “trường học thông minh”, “lớp học số”, “hệ thống học liệu mở”,… đã được thử nghiệm tại các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế,… bước đầu mang lại những kết quả tích cực. Có được thành tích, kết quả nêu trên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, toàn dân, là sự đoàn kết thống nhất, chung sức đồng lòng, nỗ lực cố gắng vượt mọi khó khăn của toàn ngành giáo dục, nhất là đội ngũ các nhà giáo(2).

Tuy nhiên, khoảng cách giữa chủ trương và thực tiễn vẫn còn đáng kể. So với yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và mục tiêu xây dựng quốc gia số theo tinh thần Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, thì việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo hiện nay còn nhiều bất cập, thể hiện ở một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, năng lực số của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn hạn chế.

Năm 2023, theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chỉ khoảng 20% số giáo viên phổ thông trên toàn quốc được tập huấn chuyên sâu về chuyển đổi số, có khả năng thiết kế và vận hành bài giảng hiệu quả trên nền tảng số. Trong khi đó, hơn 60% giáo viên mới chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng các công cụ cơ bản, như trình chiếu, phần mềm kiểm tra trực tuyến, chấm điểm tự động,… mà chưa tiếp cận với các công nghệ giáo dục tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, học tập thích ứng hay quản lý lớp học qua nền tảng số tích hợp. Bước sang năm 2024, năng lực số của đội ngũ giáo viên đã có chuyển biến tích cực, một số địa phương như tỉnh Quảng Ninh, có hơn 400 cán bộ, giáo viên được tập huấn chuyên sâu về chuyển đổi số với nội dung tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) và ứng dụng hệ thống quản lý học tập (LMS). Tuy nhiên, tính trên phạm vi toàn quốc, tỷ lệ giáo viên được đào tạo chuyên sâu vẫn ở mức dưới 30%, chưa tương xứng với tốc độ triển khai các nền tảng số trong quản lý và giảng dạy(3).

Tính đến tháng 6-2025, hệ sinh thái giáo dục số đã được mở rộng đáng kể. Hơn 11.400/14.663 trường tiểu học (chiếm khoảng 77,8%) đã triển khai học bạ điện tử; nhiều địa phương, như thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bắc Giang cũ (nay là tỉnh Bắc Ninh) đã hoàn thiện kết nối dữ liệu học sinh với hệ thống học tập trực tuyến và thi trực tuyến tích hợp. Tại huyện Ba Vì (nay là xã Ba Vì, Hà Nội), trong 6 tháng đầu năm 2025, hơn 37.000 tài liệu số được đưa vào kho học liệu điện tử, hỗ trợ giáo viên trong công tác chuẩn bị bài giảng. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý thi và tuyển sinh trực tuyến đã được triển khai đồng bộ tại 63/63 tỉnh, thành phố, với gần 100% học sinh lớp 12 đăng ký dự thi và xét tuyển trực tuyến(4).

Tuy nhiên, việc nâng cao năng lực thực hành số của giáo viên vẫn là một thách thức. Phần lớn giáo viên chưa được tiếp cận sâu với các mô hình học tập thông minh, các công cụ phân tích học tập dựa trên dữ liệu lớn, hay phương pháp giảng dạy tích hợp đa nền tảng. Hệ quả là, nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc thiết kế bài giảng số và tổ chức dạy học trực tuyến, nhất là trong những bối cảnh đặc thù hoặc khẩn cấp. Đây là nút thắt cần được tháo gỡ trong tiến trình phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong ngành giáo dục và đào tạo hiện nay.

Thứ hai, khoảng cách số giữa các vùng, miền ngày càng rõ nét.

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ), năm 2022, tại các vùng sâu, vùng xa, điều kiện hạ tầng mạng và thiết bị dạy học vẫn còn rất hạn chế, gây trở ngại lớn trong việc tiếp cận công nghệ hiện đại và triển khai chuyển đổi số trong giáo dục. Mặc dù mạng internet đã được phủ sóng gần như toàn bộ thôn, bản (99,73%) và 100% trường học trên cả nước, song con số này chưa phản ánh đầy đủ mức độ ổn định cũng như chất lượng đường truyền phục vụ dạy và học. Theo đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo, vẫn còn khoảng 18% số trường tại các địa phương khó khăn chưa được kết nối internet ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tổ chức dạy học trực tuyến.

Đáng chú ý, tình trạng thiếu thiết bị học tập tại nhà trong thời gian học trực tuyến do đại dịch COVID-19 diễn ra phổ biến. Trong năm học 2021 - 2022, Bộ Giáo dục và Đào tạo ước tính có khoảng 1,5 triệu học sinh thuộc 26 tỉnh, thành phố chưa có thiết bị để học trực tuyến. Điều này đồng nghĩa với việc ở nhiều khu vực chưa đến 40% học sinh có khả năng học online, phản ánh rõ nét tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận chuyển đổi số giáo dục, nhất là đối với các nhóm học sinh yếu thế.

Khoảng cách số giữa khu vực thành thị và nông thôn, đặc biệt là các vùng miền núi, dân tộc thiểu số, không những chưa được thu hẹp mà còn có xu hướng ngày càng gia tăng trong điều kiện nền tảng chuyển đổi số chưa được đồng bộ và ổn định. Thực trạng này đặt ra thách thức đối với việc bảo đảm công bằng và hiệu quả giáo dục, khi mà chất lượng học tập ngày càng phụ thuộc vào điều kiện hạ tầng kỹ thuật và mức độ tiếp cận thiết bị công nghệ của người học.

Năm 2024, tình hình có những dấu hiệu tích cực hơn. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các hội thảo, tập huấn chuyên sâu về ứng dụng AI, hệ thống dữ liệu giáo dục và cải tiến phương pháp đào tạo giáo viên trên nền tảng số tại nhiều trường đại học, điển hình như tại Đại học Kinh tế quốc dân, ngày 7-12-2024 diễn ra hội thảo “Giáo dục đại học với công nghệ số”. Một số trường đại học sư phạm ở các thành phố lớn, như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã triển khai áp dụng hệ thống VLE (Virtual Learning Environment), cho phép giảng viên thực hành phương pháp sư phạm số trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(5).

Tuy nhiên, đến giữa năm 2025, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực, nhưng quy mô tích hợp vẫn còn khá hạn chế. Một số ít chương trình đào tạo sư phạm đã bổ sung môn học về giáo dục và công nghệ hoặc kỹ năng công nghệ thông tin chuyên sâu, song chưa phổ cập. Việc tích hợp thường dừng ở các môn tự chọn, hoặc chỉ áp dụng trong các mô-đun ngắn hạn. Ngoài ra, tài liệu số, ứng dụng AI/GPT và học liệu số mở vẫn chưa được đưa vào chương trình chính khóa một cách hệ thống.

Thứ ba, công tác quản trị giáo dục trong môi trường số còn lúng túng, thiếu đồng bộ.

Mặc dù các phần mềm quản lý như EMIS, SMAS, VnEdu đã được triển khai ở nhiều địa phương, nhưng việc liên kết, chia sẻ và khai thác dữ liệu giáo dục còn manh mún, thiếu thống nhất. Cơ sở dữ liệu ngành giáo dục chưa được cập nhật đầy đủ, chưa được sử dụng hiệu quả trong việc ra quyết định quản lý. Đội ngũ cán bộ phụ trách công nghệ ở các cơ sở giáo dục chủ yếu là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chuyên sâu, dẫn đến việc triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số mang tính hình thức, đối phó hoặc theo phong trào.

Thứ tư, nhận thức về vai trò chiến lược của chuyển đổi số trong giáo dục còn hạn chế.

Không ít cán bộ quản lý, giáo viên còn xem chuyển đổi số như một công cụ kỹ thuật đơn thuần, thiếu góc nhìn chiến lược gắn với mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Do vậy, nhiều kế hoạch, đề án chuyển đổi số còn thiếu chiều sâu, thiếu tính liên ngành, chưa thực sự tạo đột phá trong phương pháp giảng dạy, đánh giá và phát triển năng lực người học.

Bên cạnh đó, nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số trong giáo dục còn dàn trải, thiếu trọng điểm. Mặc dù kế hoạch tài chính trung hạn 2021 - 2025 có đề cập đến mục tiêu chuyển đổi số, nhưng theo Bộ Tài chính, chỉ khoảng 3% - 5% ngân sách giáo dục các địa phương được phân bổ cho công nghệ giáo dục, thiết bị số, học liệu điện tử hoặc đào tạo năng lực số cho giáo viên. Sự hạn chế về nguồn lực đầu tư khiến nhiều trường học không có điều kiện nâng cấp hạ tầng hoặc triển khai các mô hình giáo dục hiện đại.

Ngoài ra, cơ chế phối hợp giữa Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ, thiếu hiệu quả. Mô hình hợp tác công - tư trong lĩnh vực công nghệ giáo dục còn ở dạng thử nghiệm, chưa hình thành hệ sinh thái số bền vững. Một số dự án, như hợp tác giữa Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh với Tập đoàn FPT, hay giữa các trường đại học với Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT),… còn mang tính đơn lẻ, thiếu khung pháp lý hỗ trợ lâu dài. Nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn vẫn chưa được khuyến khích mạnh mẽ để tham gia đầu tư, cùng phát triển học liệu số và nền tảng giáo dục thông minh.

Từ thực trạng trên có thể thấy, nếu không có sự điều chỉnh mạnh mẽ về thể chế, chính sách, chương trình đào tạo và chiến lược phát triển đội ngũ, thì nguy cơ tụt hậu về năng lực số trong giáo dục là rất hiện hữu. Điều này sẽ tác động trực tiếp đến chất lượng nguồn nhân lực quốc gia - yếu tố then chốt bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số không chỉ là nhiệm vụ nội tại của ngành giáo dục, mà còn là đòi hỏi khách quan từ quá trình hiện đại hóa, số hóa toàn diện nền kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ mới.

Nhiều cơ sở giáo dục áp dụng các nền tảng học tập tích hợp AI_Ảnh: kinhtedothi.vn

Một số vấn đề đặt ra hiện nay trong việc xây dựng mô hình giáo dục chuyển đổi số

Trong tiến trình chuyển đổi số toàn diện nền kinh tế - xã hội, phát triển nguồn nhân lực số được xác định là yếu tố trung tâm, mang tính quyết định đối với sự thành công của công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Tuy nhiên, thách thức lớn đặt ra hiện nay không chỉ nằm ở việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng công nghệ cho người học, mà còn là làm thế nào để hình thành được lớp người vừa am hiểu công nghệ, vừa có bản lĩnh văn hóa, đạo đức, lý tưởng cách mạng và khả năng hội nhập bền vững. Đây là yêu cầu mang tính chiến lược đối với ngành giáo dục - đào tạo trong bối cảnh mới.

Nếu quá trình chuyển đổi số trong giáo dục chỉ tập trung vào trang bị kỹ năng kỹ thuật số, như lập trình, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data),… mà xem nhẹ nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức, nhân cách, tinh thần yêu nước và giá trị văn hóa dân tộc, thì rất dễ dẫn đến nguy cơ hình thành lớp “con người kỹ thuật thuần túy” - giỏi chuyên môn nhưng thiếu lý tưởng, xa rời bản sắc dân tộc, dễ bị ảnh hưởng bởi các dòng chảy văn hóa lai căng, thực dụng và phi chính trị.  

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định quan điểm: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6)… “Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng”(7). Trong giáo dục hiện đại, tư tưởng đó cần được cụ thể hóa bằng việc xây dựng mô hình phát triển con người số toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, vừa giỏi công nghệ, vừa kiên định lý tưởng cách mạng, thấm nhuần giá trị văn hóa và truyền thống dân tộc. Đây chính là sự kết hợp biện chứng giữa khoa học - công nghệ và văn hóa - tư tưởng mà Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII cũng đã chỉ rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”(8). Vì vậy, phát triển con người trong thời đại số không thể tách rời nền tảng văn hóa - tư tưởng. Mỗi công dân số cần được giáo dục trong môi trường học tập có văn hóa, được tiếp cận công nghệ hiện đại trong mối gắn kết hữu cơ với hệ giá trị truyền thống, bản sắc và lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở đó, đặt ra ba vấn đề cấp thiết cần giải quyết trong xây dựng mô hình giáo dục chuyển đổi số hiện nay:

Thứ nhất, tăng cường tích hợp các giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc trong nội dung đào tạo kỹ năng số.

Chương trình giáo dục, đặc biệt ở bậc phổ thông và đại học, cần đồng thời cung cấp tri thức công nghệ hiện đại và nuôi dưỡng nền tảng văn hóa - lịch sử, tinh thần dân tộc, kỹ năng sống và đạo đức công dân. Quá trình phát triển học liệu số phải gắn với tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống hiếu học, tinh thần tự cường, để công nghệ không làm “mất gốc” mà trở thành phương tiện phát huy sâu sắc hơn bản sắc văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số.

Thứ hai, chú trọng giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng song hành với giáo dục STEM.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thế hệ trẻ đối diện với nhiều thách thức về giá trị sống, nhận thức chính trị và sự phân hóa tư tưởng. Vì vậy, cần tích hợp hiệu quả giáo dục chính trị - tư tưởng trong môi trường số, thông qua các hình thức sáng tạo, như: nền tảng học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trực tuyến, trò chơi hóa giáo dục công dân, ứng dụng thực tế ảo tái hiện lịch sử cách mạng,… giúp người học tiếp cận giá trị truyền thống một cách sinh động và hiệu quả. Thứ ba, xây dựng văn hóa học tập, sáng tạo và khai phóng trong môi trường số.

Một hệ sinh thái giáo dục số tiên tiến không thể chỉ dựa trên hạ tầng công nghệ, mà phải là một môi trường có văn hóa, nơi người học được khuyến khích tự học, phản biện, đổi mới và hình thành ý thức công dân số có trách nhiệm. Điều này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa nhà trường - gia đình - xã hội trong việc hình thành không gian học tập đề cao nhân cách, văn minh số, có kỷ luật công nghệ, tôn trọng quyền riêng tư và phát triển văn hóa học tập suốt đời.

Như vậy, có thể thấy, vấn đề không phải là công nghệ thay thế con người, mà là con người làm chủ công nghệ - để công nghệ trở thành công cụ nâng cao trí tuệ, bồi đắp phẩm chất, lan tỏa giá trị văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đây cũng chính là mục tiêu cốt lõi trong phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số hiện nay - không chỉ vì sự phát triển của đất nước, mà còn để khẳng định bản lĩnh, giá trị và vị thế văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế, đúng như tinh thần Đảng ta xác định: “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”(9).

Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo giai đoạn hiện nay

Trước yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp phát triển đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số toàn diện, ngành giáo dục và đào tạo cần triển khai đồng bộ các giải pháp chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân lực số có năng lực chuyên môn vững vàng, kỹ năng số hiện đại và nền tảng tư tưởng - văn hóa vững chắc. Trọng tâm của các giải pháp đó bao gồm:

Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách về giáo dục trong thời đại số.

Phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo cần được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển nhân lực quốc gia, bảo đảm sự đồng bộ giữa các ngành, các cấp, các địa phương. Một số nội dung cần được ưu tiên xây dựng và ban hành bộ tiêu chuẩn năng lực số dành cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, bao gồm: năng lực công nghệ thông tin, khai thác nền tảng học tập số, phát triển học liệu số, quản lý dữ liệu và bảo đảm an toàn thông tin trong môi trường giáo dục. Lồng ghép mục tiêu chuyển đổi số vào Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quyết định số 2239/QĐ-TTg, ngày 30-12-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045”), nhất là trong chương trình đào tạo giáo viên, đổi mới chương trình sư phạm, chính sách đầu tư cho công nghệ giáo dục và cơ sở vật chất. Tăng cường vai trò kiến tạo của Nhà nước, đồng thời thúc đẩy xã hội hóa, hợp tác công - tư trong phát triển hạ tầng và nội dung giáo dục số, đặc biệt tại các khu vực khó khăn. Ban hành cơ chế tài chính linh hoạt, tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục chủ động sử dụng ngân sách và huy động nguồn lực xã hội đầu tư cho chuyển đổi số, bồi dưỡng giáo viên, phát triển kho học liệu mở...

Cần sớm xây dựng và ban hành Luật Chuyển đổi số và Luật Dữ liệu số nhằm điều chỉnh toàn diện các quan hệ pháp lý phát sinh trong môi trường số, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm an toàn thông tin, bảo mật dữ liệu cá nhân của người học và giáo viên; xác lập quyền sở hữu trí tuệ đối với học liệu số; đồng thời, quy định rõ trách nhiệm pháp lý của các bên tham gia vào hệ sinh thái giáo dục số, như nhà trường, cơ quan quản lý, doanh nghiệp công nghệ và người học. Việc hoàn thiện khung pháp lý sẽ góp phần tạo nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi số trong giáo dục diễn ra một cách minh bạch, hiệu quả và bền vững.

Hai là, đổi mới chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy.

Việc đào tạo kỹ năng số cần được tích hợp sâu trong chương trình đào tạo giáo viên và học sinh, trở thành thành phần cốt lõi của năng lực người học trong thời đại mới. Đẩy mạnh đào tạo kỹ năng số trong các trường sư phạm và cơ sở đào tạo giáo viên, thông qua việc xây dựng các học phần chuyên biệt về công nghệ giáo dục, trí tuệ nhân tạo, quản lý dữ liệu giáo dục, học tập thích ứng…; đồng thời, tổ chức trung tâm đổi mới sáng tạo giáo dục sư phạm nhằm giúp giáo sinh được thực hành trong môi trường số thực tế. Khuyến khích mô hình học tập chủ động, học tập suốt đời trên nền tảng số, như học tập kết hợp (blended learning), học tập linh hoạt (flexible learning), học tập cá nhân hóa (personalized learning). Cần định hướng người học khai thác MOOC(10), thư viện số, nền tảng học tập thông minh, phát triển kỹ năng tự học và tư duy phản biện trong môi trường số. Phát triển học liệu số có tính nhân văn, phù hợp với văn hóa Việt Nam. Việc số hóa sách giáo khoa, giáo trình cần tích hợp các yếu tố văn hóa dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử và đạo đức cách mạng. Các kho học liệu mở quốc gia như Vietnam OpenEdu cần được nâng cấp, đa nền tảng, dễ tiếp cận, bảo đảm công bằng tri thức cho mọi đối tượng học tập. Việc đổi mới nội dung - phương pháp giảng dạy cần gắn với chuẩn đầu ra năng lực số, đồng thời kết hợp giữa khoa học - công nghệ với nhân văn - văn hóa, để hình thành thế hệ công dân số vừa hiện đại, vừa mang đậm bản sắc Việt Nam.

Ba là, tăng cường hợp tác công - tư trong đào tạo nguồn nhân lực số.

Chuyển đổi số là tiến trình toàn dân, toàn diện, do đó cần sự tham gia chủ động, hiệu quả của khu vực doanh nghiệp và tổ chức xã hội trong đào tạo nguồn nhân lực số. Gắn kết nhà trường với doanh nghiệp công nghệ để cùng phát triển chương trình đào tạo, học phần kỹ năng số, tổ chức thực tập - thực tế công nghệ và cập nhật công nghệ mới cho nhà trường. Mô hình hợp tác giữa Tập đoàn FPT và Đại học Bách khoa Hà Nội, giữa Tập đoàn Viettel và Học viện Kỹ thuật Quân sự là ví dụ điển hình cần được mở rộng. Xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo trong trường học (Innovation Hub) để kết nối sinh viên - giảng viên - doanh nghiệp trong phát triển sản phẩm công nghệ giáo dục (EdTech), hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trong giáo dục số. Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư vào giáo dục số, bao gồm miễn, giảm thuế, bảo hộ sở hữu trí tuệ cho học liệu số, hỗ trợ tài chính cho dự án khởi nghiệp ngành công nghệ giáo dục (EdTech). Các bộ, ngành liên quan cần phối hợp để hoàn thiện khung chính sách hợp tác công - tư bảo đảm hiệu quả, minh bạch, gắn với yêu cầu phát triển bền vững. Hợp tác công - tư không chỉ là giải pháp ngắn hạn để tăng cường nguồn lực, mà là chiến lược lâu dài nhằm xây dựng hệ sinh thái giáo dục số gắn với thị trường lao động và động lực công nghệ mới.

Bốn là, phát triển hạ tầng số và thu hẹp khoảng cách số.

Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay là sự bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận công nghệ giữa các vùng, miền. Nếu không giải quyết căn bản vấn đề này, chuyển đổi số giáo dục có nguy cơ tạo ra “khoảng cách số” ngày càng lớn, đe dọa tính công bằng và bền vững trong phát triển nhân lực. Ưu tiên đầu tư hạ tầng mạng và thiết bị học tập cho vùng sâu, vùng xa. Cần có chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển hạ tầng số trong giáo dục, kết hợp đầu tư công trung hạn với cơ chế huy động doanh nghiệp viễn thông, công nghệ số tài trợ, hỗ trợ thiết bị, cung cấp nền tảng quản lý giáo dục với chi phí ưu đãi. Xây dựng hệ sinh thái giáo dục số đồng bộ, thân thiện với người học, gồm nền tảng học trực tuyến (LMS), kho học liệu mở quốc gia, hệ thống kiểm tra - đánh giá số, kết nối giữa nhà trường - học sinh - phụ huynh - doanh nghiệp. Các nền tảng cần thiết kế đơn giản, đa ngôn ngữ, phù hợp với học sinh tiểu học, học sinh dân tộc thiểu số, người dân ở vùng khó khăn và các nhóm yếu thế. Bảo đảm an ninh mạng và an toàn thông tin trong giáo dục, thông qua việc lồng ghép giáo dục đạo đức số, kỹ năng bảo vệ dữ liệu cá nhân, phòng, chống xâm hại mạng trong chương trình chính khóa phổ thông và bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên.

Phát triển hạ tầng số không chỉ là điều kiện kỹ thuật, mà là đòn bẩy chiến lược để phổ cập tri thức, nâng cao chất lượng giáo dục, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, góp phần hình thành nguồn nhân lực số toàn diện, công bằng và hiệu quả./.

-----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 112
(2) Xem: GS, TS. Tô Lâm: “Phát huy truyền thống hiếu học, quý trọng hiền tài của dân tộc; sự tâm huyết, yêu nghề, sẵn sàng hy sinh của các nhà giáo, cùng sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, toàn ngành giáo dục quyết tâm thực hiện thành công công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo”, Tạp chí Cộng sản, số 1.051 (tháng 12 năm 2024), tr. 9
(3) Xem: Xuân Kỳ, Quý Tùng: “Chuyển đổi số góp phần nâng cao chất lượng giáo dục”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 28-8-2024, https://nhandan.vn/chuyen-doi-so-gop-phan-nang-cao-chat-luong-giao-duc-post827175.html?utm
(4) Xem: Linh An: “Những con số và kết quả thực hiện chuyển đổi số và Đề án 06 của ngành giáo dục”, Tạp chí Điện tử Giáo dục Việt Nam, ngày 25-7-2025, https://giaoduc.net.vn/nhung-con-so-ve-ket-qua-thuc-hien-chuyen-doi-so-va-de-an-06-cua-nganh-giao-duc-post244370.gd
(5) Xem: Trung tâm Truyền thông và Sự kiện: “Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số, cải cách hành chính năm 2025”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 11-2-2025, https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/tang-cuong-ung-dung-cntt/Pages/Default.aspx?ItemID=10273
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 30
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 345
(8) Xem: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16-7-1998, của Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII), “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
(9) Xem: Quyết định số 1909/QĐ-TTg, ngày 12-11-2021, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030”
(10) Khai thác MOOC (Massive Open Online Course) là việc sử dụng các khóa học trực tuyến mở đại trà để học tập, nghiên cứu hoặc phát triển kỹ năng. Đây là quá trình tận dụng các tài nguyên học tập trực tuyến miễn phí, mở và quy mô lớn để phục vụ cho mục đích cá nhân