Vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
TCCS - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua từ khi Đảng ta ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong đó, cùng với C.Mác và Ph.Ăng-ghen, những tư tưởng của V.I.Lê-nin về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, có ý nghĩa và ảnh hưởng to lớn, trực tiếp đến cách mạng Việt Nam, được Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một cách sáng tạo trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam vào dòng chảy của thời đại
Trong bối cảnh của thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản thể hiện rõ rệt, V.I.Lê-nin đã phát triển chủ nghĩa Mác, đưa ra lý luận về khả năng nổ ra và thắng lợi của cách mạng vô sản trước tiên ở một số nước, thậm chí có thể ở một nước tư bản riêng biệt, là khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản, mà không nhất thiết là phải ở các nước tư bản phát triển. Đồng thời, V.I.Lê-nin cho rằng, do tính chất của thời đại, một nước tư bản chủ nghĩa chưa phát triển, thậm chí chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, sau khi cách mạng thắng lợi, có thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội qua một thời kỳ quá độ với một loạt các bước quá độ nhỏ. V.I.Lê-nin viết: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”(1). Tiền đề tiên quyết để thực hiện được điều này, như nhiều lần V.I.Lê-nin chỉ rõ, là phải có một đảng cách mạng lãnh đạo và giai cấp công nhân, nhân dân lao động phải giành được chính quyền, sử dụng chính quyền cách mạng đó để tạo ra những tiền đề, điều kiện cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, Người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX là người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc qua năm châu, bốn bể để tìm đường cứu nước. Khi đọc bản “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lê-nin, Người đã tìm thấy con đường cứu nước. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” năm 1927, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa V.I.Lê-nin”(2). Tin theo V.I.Lê-nin, từ một người yêu nước, Người trở thành một người cộng sản, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào cách mạng Việt Nam.
Quán triệt và vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin, những năm 20 của thế kỷ XX, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc mở nhiều lớp đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, kết hợp phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng. Chánh cương vắn tắt được Hội nghị thành lập Đảng thông qua (tháng 2-1930) và Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được Hội nghị Trung ương đầu tiên thông qua (tháng 10-1930) đều xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, đánh đổ thực dân phong kiến và đi tới chủ nghĩa cộng sản. Trong hơn 90 năm qua, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn luôn là mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, lãnh đạo nhân dân ta trải qua 15 năm đấu tranh đầy hy sinh gian khổ, làm nên thắng lợi vĩ đại Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của khu vực Đông Nam Á và trải qua hơn 30 năm kháng chiến trường kỳ, chiến tranh ác liệt đã đánh bại những kẻ thù xâm lược hùng mạnh, bảo vệ độc lập, tự do, thống nhất đất nước để cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng của V.I.Lê-nin về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một nước lạc hậu
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xô-viết chồng chất khó khăn, thù trong, giặc ngoài, chính quyền Xô-viết ở vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, buộc V.I.Lê-nin và Nhà nước Xô-viết phải thực hiện Chính sách Cộng sản thời chiến. Nội dung cơ bản của Chính sách Cộng sản thời chiến là Nhà nước trưng thu lương thực của nông dân, quản lý tập trung, nghiêm ngặt sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp; xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tự do lưu thông; thực hiện phân phối theo chế độ cung cấp. Ban đầu, Chính sách Cộng sản thời chiến được thực hiện do yêu cầu, đòi hỏi khách quan của hoàn cảnh chiến tranh, nhưng sau đó, làm nảy sinh tư tưởng (sai lầm) là có thể trực tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản không cần qua những bước quá độ.
Mặc dù Chính sách Cộng sản thời chiến có tác dụng nhất định trong những năm chiến tranh, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc đã đẩy nước Nga Xô-viết vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, Chính sách kinh tế mới được V.I.Lê-nin đề xuất và lãnh đạo thực hiện ở nước Nga Xô-viết, thay thế cho Chính sách Cộng sản thời chiến. Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin ra đời và thực hiện ở nước Nga Xô-viết trong điều kiện đặc thù của nước Nga khi đó, nhưng lịch sử càng lùi xa, càng cho thấy rõ đây là những vấn đề chung, có tính quy luật đối với một nước kinh tế chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhưng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những nội dung cơ bản của Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin có thể tổng hợp lại như sau:
Một là, phục hồi, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nội chiến kết thúc, nền kinh tế bị tàn phá, V.I.Lê-nin xác định nhiệm vụ hàng đầu của nước Nga lúc đó là phục hồi sản xuất, mà trước hết là sản xuất nông nghiệp. Việc phục hồi, phát triển nông nghiệp lúc đó chủ yếu phải nhờ vào phục hồi, phát triển sản xuất nhỏ, cá thể của nông dân. V.I.Lê-nin cho rằng: “Toàn bộ vấn đề là ở chỗ đem lại cho nông dân một sự khuyến khích, kích thích về mặt kinh tế”(3), do đó, đã thay thế chính sách trưng thu lương thực bằng chính sách thuế nông nghiệp và cho phép tự do lưu thông hàng hóa, trao đổi sản phẩm của nông nghiệp cũng như của công nghiệp, phục hồi quan hệ hàng hóa - tiền tệ đã bị xóa bỏ trong thời kỳ Chính sách Cộng sản thời chiến. Về ý nghĩa của việc tự do lưu thông, phát triển thương nghiệp, V.I.Lê-nin cho rằng: “Giữa nông dân và công nhân, tức là giữa nông nghiệp và công nghiệp không thể có sự liên hệ kinh tế nào khác, ngoài việc trao đổi, buôn bán. Thực chất của vấn đề là ở đó”(4). V.I.Lê-nin biết rõ rằng, sự phát triển của những người sản xuất nhỏ, cá thể trong nền kinh tế hàng hóa nhất định sẽ dẫn tới sự ra đời, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa và cho rằng đó là điều không tránh khỏi và cần thiết để phục hồi, phát triển kinh tế đất nước. Hơn nữa, để phát triển kinh tế, V.I.Lê-nin chủ trương thực hiện chính sách “tô nhượng” để lôi kéo các nhà tư bản nước ngoài vào đầu tư ở nước Nga.
Theo V.I.Lê-nin, trong tình hình nước Nga Xô-viết khi đó, nếu thực hiện chính sách ngăn cấm sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa thì “chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế nhất định sẽ phá sản”(5). V.I.Lê-nin cho rằng, chủ nghĩa tư bản ở nước Nga Xô-viết có quản lý của nhà nước vô sản là một loại hình mới của chủ nghĩa tư bản, đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước, một nấc thang quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, ở nước Nga Xô-viết khi đó có những cơ sở kinh tế của nhà nước, đó là những nhà máy, hầm mỏ nhà nước tịch thu của các thế lực phản động. V.I.Lê-nin xem đây là những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Do đó, nền kinh tế nước Nga Xô-viết hình thành và phát triển trong thời kỳ Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin là một nền kinh tế hàng hóa có 5 thành phần là: Kinh tế nông dân gia trưởng; sản xuất hàng hóa nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản nhà nước; chủ nghĩa xã hội.
Tính chất quá độ thể hiện rõ trong kết cấu của nền kinh tế, trong đó có những mảnh, những bộ phận của cả chủ nghĩa tư bản và của chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn cơ bản trong nền kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo V.I.Lê-nin, là mâu thuẫn giữa một bên là các yếu tố chủ nghĩa xã hội đã ra đời nhưng còn non trẻ với một bên là các thế lực tư bản chủ nghĩa và tính tự phát tư bản chủ nghĩa của những người sản xuất nhỏ. Cuộc đấu tranh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội đã ra đời nhưng còn non yếu với chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị xóa bỏ; giữa hai khuynh hướng phát triển xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa của nền kinh tế; với nhiệm vụ đặt ra là phải bảo đảm thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Con đường quá độ để đưa những người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội mà V.I.Lê-nin đề xuất là con đường hợp tác hóa, tổ chức nông dân vào các hợp tác xã nông nghiệp, những người sản xuất tiểu thủ công nghiệp vào hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, những người buôn bán nhỏ vào các hợp tác xã tiêu thụ. Và như vậy, tạo điều kiện thuận lợi cho bước quá độ đưa những người sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; đó là con đường “phù hợp nhất, dễ tiếp thu, dễ được chấp nhận nhất” đối với những người sản xuất nhỏ cá thể.
Đối với sự phát triển không thể tránh khỏi của kinh tế tư bản chủ nghĩa, để quá độ lên chủ nghĩa xã hội, V.I.Lê-nin chủ trương hướng sự phát triển đó vào con đường tư bản nhà nước. Đó là chủ nghĩa tư bản dưới sự điều tiết, kiểm kê, kiểm soát của chính quyền nhà nước vô sản. Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước là kết quả tất yếu của việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, sử dụng kinh tế tư bản để phục hồi và phát triển kinh tế; đồng thời cho phép kiểm soát, điều tiết, từng bước hạn chế, khắc phục tính chất tư bản chủ nghĩa, là một nấc thang quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
V.I.Lê-nin và Nhà nước Xô-viết đặc biệt quan tâm việc sắp xếp lại, củng cố, nâng cao hiệu quả của các cơ sở kinh tế của nhà nước. Theo sự chỉ đạo của V.I.Lê-nin, Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao của Nhà nước Xô-viết chỉ giữ lại những xí nghiệp nhà nước quan trọng nhất về kinh tế, còn các xí nghiệp khác đóng cửa hoặc cho thuê và giao theo hợp đồng tô nhượng cho người khác. Sau khi giảm bớt số lượng doanh nghiệp hoạt động, với những xí nghiệp còn lại, V.I.Lê-nin yêu cầu “do sự cần thiết là phải gấp rút tăng năng suất lao động, phải làm sao cho mỗi xí nghiệp nhà nước không được lỗ mà phải có lãi”(6); các xí nghiệp hoạt động phải tuân thủ nguyên tắc hạch toán kinh tế. Cùng với lĩnh vực sản xuất, V.I.Lê-nin yêu cầu nhà nước Xô-viết phải quan tâm tới lĩnh vực thương nghiệp, tới lưu thông, giá cả, thị trường, các lĩnh vực quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống.
Yếu tố quan trọng, quyết định nhất để nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo V.I.Lê-nin, là vai trò và hiệu quả quản lý, kiểm soát của chính quyền Xô-viết. Việc cho phép phục hồi và phát triển kinh tế tư bản tư nhân không có nghĩa là để chủ nghĩa tư bản tự do phát triển, đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa. V.I.Lê-nin chỉ rõ, toàn bộ vấn đề là ở chỗ mức độ cho phép chủ nghĩa tư bản tồn tại dưới các hình thức, phương thức điều tiết của nhà nước. Tư tưởng cải tạo bộ máy nhà nước của V.I.Lê-nin là “Thà ít mà tốt”. Nhiều lần Người nhấn mạnh, vấn đề là “lựa chọn đúng người và kiểm tra công việc thực hiện”, là phải “thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân đối với công việc đang làm”(7), là “đấu tranh không khoan nhượng chống hiện tượng không dứt khoát, không rành mạch về nhiệm vụ được giao cho mỗi người, và chống tình trạng hoàn toàn vô trách nhiệm do hiện tượng đó gây ra”(8), là tăng cường kỷ luật, tính tổ chức và sự kiểm soát, loại bỏ tình trạng, như V.I.Lê-nin viết “ở nước ta, sự táo bạo trong những công trình lý luận chung đã song song tồn tại với tính rụt rè lạ lùng trước một cuộc cải cách hành chính nhỏ nhặt nhất”(9)... V.I.Lê-nin cho rằng, cải tổ được bộ máy nhà nước Xô-viết thì “đó sẽ là một thành tựu lớn lao, đó sẽ là sự bảo đảm cho thắng lợi của chúng ta”(10).
Hai là, thực hiện công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Là người theo quan điểm duy vật lịch sử, V.I.Lê-nin nhiều lần cho rằng, xét đến cùng, năng suất lao động là yếu tố quyết định sự thắng lợi của một chế độ xã hội, chủ nghĩa xã hội sẽ đánh bại chủ nghĩa tư bản, thay thế chủ nghĩa tư bản khi tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản; “phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của chủ nghĩa xã hội là đại công nghiệp cơ khí. Ai quên điều đó, người đó không phải là người cộng sản”(11), “chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”. Nhưng, đối với nước Nga, một nước chủ nghĩa tư bản phát triển thấp, còn phổ biến sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá, cái thiếu nhất để quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí, nền tảng vật chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, ngay khi nội chiến kết thúc, V.I.Lê-nin đề ra nhiệm vụ công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền Xô-viết.
Tuy nhiên, Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin lại bắt đầu từ khôi phục và phát triển nông nghiệp. Giải thích về điều này, V.I.Lê-nin cho rằng, tập trung vào khôi phục và phát triển công nghiệp rồi thông qua đó để khôi phục lại toàn bộ nền kinh tế là điều đáng mong đợi, nhưng để khôi phục công nghiệp cần phải có lương thực, thực phẩm cho công nhân, cần nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng, máy móc, thiết bị... cho công nghiệp, nhưng lúc đó chưa thể có được, trong khi nạn đói đang bao trùm đất nước, xã hội rối loạn, nên việc bắt đầu từ nông nghiệp, nông dân là đúng đắn. Người còn nói rõ hơn: phải bắt đầu từ nông dân. Người nào không hiểu điều đó, người nào còn cho rằng đưa vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế là từ bỏ công nghiệp hóa thì chẳng qua người đó không chịu suy nghĩ kỹ về tình hình và bị lời nói trống rỗng chi phối. Khôi phục và phát triển nông nghiệp là để tạo cơ sở, tiền đề cho công nghiệp hóa. Việc thực hiện chính sách “tô nhượng” để thu hút sự tham gia của tư bản nước ngoài và cho phục hồi, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa và hướng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng là để thực hiện công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lê-nin nói là sử dụng các nhà tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Điều đặc biệt là, ngay từ năm 1920, khi nội chiến chưa kết thúc, nhưng trước thắng lợi của Hồng quân và khả năng kết thúc nội chiến đã thể hiện rõ, V.I.Lê-nin đã thành lập Ủy ban điện khí hóa nước Nga (tháng 2-1920) và chỉ đạo xây dựng kế hoạch điện khí hóa nước Nga (GOELRO) để đưa ra Đại hội VIII Xô-viết toàn Nga (tháng 12-1920) thảo luận, thông qua. Đây là một chương trình lớn được xây dựng một cách khoa học để khôi phục và xây dựng nền kinh tế nước Nga Xô-viết trên cơ sở điện khí hóa, theo tư tưởng chỉ đạo của V.I.Lê-nin “việc đặt nền móng cho sự thực hiện kế hoạch điện khí hóa vĩ đại là cái sẽ cho phép chúng ta khôi phục nền đại công nghiệp và ngành vận tải trên một quy mô và một cơ sở kỹ thuật khiến có thể hoàn toàn và vĩnh viễn chiến thắng nạn đói kém, cảnh nghèo cùng”(12). Điện khí hóa là công nghệ hiện đại nhất những năm đầu thế kỷ XX, tư tưởng về công nghiệp hóa trên nền tảng điện khí hóa của V.I.Lê-nin gắn kết chặt chẽ công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn cả về vốn, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, năng lượng, lương thực, thực phẩm, việc khôi phục sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều khó khăn, V.I.Lê-nin chủ trương “đóng cửa tới mức tối đa những xí nghiệp không có khả năng hoạt động, nhằm tập trung sản xuất vào một số lượng không lớn những xí nghiệp được tổ chức tốt nhất”(13). Trong khôi phục sản xuất công nghiệp, V.I.Lê-nin ưu tiên tập trung phục hồi các xí nghiệp sản xuất nhiên liệu, năng lượng, vùng mỏ Đôn-bát (nơi cung cấp 60% than cho đất nước), các giếng dầu, các xí nghiệp cơ khí sản xuất máy cày cho nông dân, máy móc cho công nhân mỏ, đầu máy xe lửa cho ngành vận tải. Đặc biệt, theo sự chỉ đạo của V.I.Lê-nin, nhà nước Xô-viết tiến hành xây dựng nhiều nhà máy điện mới. Cùng với sắp xếp lại và định hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp, V.I.Lê-nin chuyển các xí nghiệp công nghiệp nhà nước sang cơ chế hạch toán kinh tế, theo cơ chế thị trường, mà khi đó V.I.Lê-nin gọi là theo những nguyên tắc buôn bán. Những xí nghiệp công nghiệp có quy mô tương đối lớn, được trang bị kỹ thuật khá, được bảo đảm vật tư, nguyên liệu, ở những vị trí địa lý thuận tiện, theo quyết định của nhà nước Xô-viết, được liên kết với nhau thành tờ-rớt. Các tờ-rớt được tự chủ cao trong sản xuất, kinh doanh, được giao quyền kế hoạch, phân phối vốn, bố trí cán bộ, trao đổi với các tờ-rớt khác cũng như với thị trường. Cho đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, tờ-rớt là các đơn vị sản xuất chủ yếu của nhà nước Xô-viết.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Thứ nhất, sau khi miền Bắc được giải phóng và tiến hành phục hồi kinh tế, tiếp thu và vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội của những nước kinh tế kém phát triển, Đảng ta xác định, miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình đất nước có chiến tranh, miền Bắc vừa chi viện sức người, sức của cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vừa chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, nên những quan điểm của Đảng vận dụng tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội chưa có điều kiện để thực hiện. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp thời kỳ này có nhiều nét tương đồng với nền kinh tế nước Nga thời kỳ Chính sách Cộng sản thời chiến của V.I.Lê-nin (tuy không quyết liệt bằng), như: không phát triển kinh tế tư nhân, hạn chế quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thực hiện chế độ phân phối bằng hiện vật cho sản xuất và tiêu dùng... Cơ chế kinh tế này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử tập trung sức mạnh của cả dân tộc đánh thắng kẻ thù xâm lược, bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng sau đó, việc kéo dài thực hiện mô hình kinh tế này đã đưa đất nước vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng.
Thứ hai, Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra đường lối đổi mới đất nước mà khởi nguồn là đổi mới tư duy, đổi mới quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đổi mới này, trên rất nhiều vấn đề, nhiều nội dung cơ bản, quan trọng là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lê-nin về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kinh tế chưa phát triển vào điều kiện nước ta ngày nay.
Đảng ta tiếp tục khẳng định nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những đặc điểm đặc thù. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 - Cương lĩnh 1991) xác định: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một nước vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta”(14). Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta “là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”(15).
Đảng ta vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của V.I.Lê-nin về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội trở thành phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, nhiều loại hình doanh nghiệp hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nước ta. Cùng với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không giới hạn về quy mô, khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn; quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác được bảo đảm. Kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài được đẩy mạnh; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một bộ phận có vai trò quan trọng của nền kinh tế đất nước.
Những cản trở quan hệ mua - bán, tự do lưu thông, việc phân phối bằng hiện vật bị bãi bỏ; quan hệ hàng hóa - tiền tệ được phục hồi, các loại thị trường hình thành và phát triển. Thị trường có vai trò ngày càng lớn trong việc quyết định giá cả hàng hóa, dịch vụ (phạm vi giá cả do Nhà nước quyết định ngày càng thu hẹp), trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực, điều tiết lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của doanh nghiệp (Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp bằng mệnh lệnh hành chính, doanh nghiệp tự chủ, điều chỉnh hoạt động theo các tín hiệu trên thị trường) và thanh lọc doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ. Cho tới trước Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta vẫn xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng ta xác định nền kinh tế nước ta là kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đây là bước tiến lớn trong nhận thức, quan điểm của Đảng ta, là đóng góp của Đảng ta vào việc bổ sung, phát triển tư tưởng của V.I.Lê-nin về phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Cùng với khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài, Đảng ta chỉ đạo sắp xếp lại, đổi mới (giải thể, bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp thua lỗ; cổ phần hóa để thu hút thêm vốn, đổi mới mô hình tổ chức, quản lý doanh nghiệp) để phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; đổi mới, phát triển các hợp tác xã để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế đất nước. Vai trò và phương thức quản lý kinh tế của nhà nước có nhiều đổi mới. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng pháp luật, chính sách, chiến lược quy hoạch, kế hoạch, các định mức, tiêu chuẩn và sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước; tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động, đồng thời định hướng hoạt động của doanh nghiệp vào các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, để gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, với phát triển văn hóa, xã hội, hạn chế sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng, các địa phương, sự chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế. Đây được xác định là những yếu tố để bảo đảm định hướng xã hội của nền kinh tế. Những nội dung này, vừa có sự vận dụng, vừa có sự sáng tạo, góp phần bổ sung, phát triển tư tưởng của V.I.Lê-nin về quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Xác định vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, do đó, Đảng ta đặc biệt quan tâm tới đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế nhà nước và việc đổi mới, tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Quản lý nhà nước về kinh tế tách khỏi quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; tách các đơn vị sự nghiệp công lập và chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp khỏi chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành; nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, xây dựng và hoàn thiện thể chế, tăng cường kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức thực hiện của các cơ quan quản lý nhà nước...
Tổ chức bộ máy nhà nước được đổi mới theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; nhiều bộ, ngành quản lý chuyên ngành sâu về kinh tế kỹ thuật trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, nội thương, ngoại thương được hợp nhất để thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước, giảm bớt các tổ chức trung gian (tổng cục). Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước từng bước được hoàn thiện, cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh. Cán bộ, công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm thông qua thi tuyển có cạnh tranh, xác định việc làm của từng chức danh, vị trí công việc. Tăng cường công tác đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí... Những đổi mới và công việc được thực hiện như vậy của Đảng, Nhà nước ta vừa có sự vận dụng, vừa phát triển sáng tạo tư tưởng của V.I.Lê-nin đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước.
Đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước kinh tế kém phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên khó khăn lớn nhất là thiếu nền tảng vật chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, ngay từ Đại hội III của Đảng (năm 1960), Đại hội mở đầu cho thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng ta đề ra đường lối công nghiệp hóa đất nước, xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chỉ trong một thời gian ngắn, cùng với phục hồi cơ sở công nghiệp cũ, nhiều công trình công nghiệp mới, lớn đã được xây dựng, như: Cơ khí Hà Nội, Gang thép Thái Nguyên, Hóa chất Việt Trì, Dệt 8-3... Nhưng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và việc tập trung chi viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam đã làm cho chương trình công nghiệp hóa bị gián đoạn.
Tại Đại hội IV của Đảng (năm 1976), Đại hội Đảng đầu tiên sau khi đất nước hòa bình, thống nhất, Đảng ta tiếp tục xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm của đất nước để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của đất nước, sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế làm cho nhiệm vụ công nghiệp hóa do Đại hội IV đề ra không thực hiện được. Trong bối cảnh đất nước khủng hoảng kinh tế, các Đại hội V, VI của Đảng chủ trương tập trung vào đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, sản xuất lương thực, thực phẩm và các chương trình sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Ngay sau khi đất nước ra khỏi khủng hoảng, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chủ trương “đẩy mạnh một bước công nghiệp hóa đất nước”; trong đó, đề ra nhiệm vụ hàng đầu là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ Đại hội VIII (năm 1996) của Đảng đến nay, qua các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI và Đại hội XII của Đảng, công nghiệp hóa luôn là một nhiệm vụ hàng đầu để phát triển đất nước. Công nghiệp hóa được xác định gắn với hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức và hiện nay là gắn với sử dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, với sự tham gia của các thành phần kinh tế, vừa phục vụ thị trường trong nước, vừa hướng ra thị trường nước ngoài; vừa phát triển những ngành đất nước có tiềm năng, lợi thế, sử dụng nhiều lao động, vừa đi ngay vào những ngành, lĩnh vực, sản phẩm công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực hiện trong tất cả các ngành kinh tế, các lĩnh vực của xã hội. Trong công nghiệp, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, bảo đảm độc lập tự chủ kinh tế của đất nước; các ngành công nghệ cao tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu, các ngành năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các ngành công nghiệp mới như công nghiệp văn hóa, công nghiệp môi trường... Phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái; gắn kết sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ theo chuỗi giá trị, bảo vệ an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường. Phát triển du lịch và các dịch vụ công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao trong các lĩnh vực, như thông tin, viễn thông, tài chính, ngân hàng, y tế, giáo dục, khoa học, công nghệ...
Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chỉ đạo thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ phát triển theo chiều rộng dựa trên tăng vốn đầu tư, khai thác tài nguyên và sử dụng lao động phổ thông, giá rẻ sang chủ yếu phát triển theo chiều sâu, dựa trên các thành tựu khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao. Để phục vụ và thúc đẩy công nghiệp hóa, Đảng chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, xem đây là những đột phá chiến lược; đồng thời, đẩy mạnh đô thị hóa, xây dựng chính phủ điện tử, chính quyền điện tử…/.
------------------------------------------
(1) V.I.Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.41, tr.295
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.289
(3) V.I.Lê-nin: Sđd, t.43, tr.86
(4) V.I.Lê-nin: Sđd, t.44, tr.378
(5) V.I.Lê-nin: Sđd, t.43, tr.267
(6) V.I.Lê-nin: Sđd, t.44, tr.419
(7) V.I.Lê-nin:Sđd, t.44, tr.452
(8) V.I.Lê-nin: Sđd, t.45, tr.181
(9) V.I.Lê-nin: Sđd, t.45, tr.454
(10) V.I.Lê-nin: Sđd, t.45, tr.292
(11) V.I.Lê-nin: Sđd, t.44, tr.60
(12) V.I.Lê-nin: Sđd, t.43, tr.266
(13) V.I.Lê-nin: Sđd, t.43, tr.309
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 8
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển