Đồng chí Trường Chinh nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam
1 - Trường Chinh - tấm gương sáng của người cộng sản kiên cường
Sớm tham gia phong trào yêu nước từ năm 1925 và gia nhập Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng năm 1927, đồng chí Trường Chinh là một trong những người tiên phong vận động thành lập Đảng và trở thành một chiến sĩ cộng sản lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Trong ngục tù đế quốc cũng như khi hoạt động công khai, đồng chí đã đem hết nghị lực, trí tuệ và nhiệt tình cách mạng tham gia truyền bá cương lĩnh, đường lối của Đảng, và góp phần to lớn vào cuộc vận động dân chủ do Đảng ta lãnh đạo trong những năm 1936 - 1939.
Năm 1940, trước sự khủng bố ác liệt, hầu hết Ban Chấp hành Trung ương của Đảng ta bị thực dân Pháp bắt và giết hại, đồng chí đã vượt qua sự truy lùng của kẻ thù, góp phần tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương, kiện toàn bộ máy của Đảng và đón đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Cuộc gặp gỡ lịch sử và sự thống nhất toàn diện giữa lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Quyền Tổng Bí thư Trường Chinh ở Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương, tháng 5-1941 (từ đây gọi là Hội nghị Trung ương 8, và Nghị quyết của Hội nghị gọi là Nghị quyết Trung ương 8) đã dẫn tới những quyết sách đúng đắn, sáng tạo, để Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc.
Trong những năm 1945 - 1946, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí cùng Trung ương Đảng chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh hiểm nghèo; tiến hành cuộc tranh đấu chống thù trong, giặc ngoài, giữ vững thành quả cách mạng; chuẩn bị toàn diện các điều kiện chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao cho việc phát động cuộc chiến tranh ái quốc và đã đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược đến thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Là thành viên trong Bộ Chính trị, đồng chí có nhiều đóng góp vào sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Năm 1986, sớm nhận rõ được xu thế của thời đại, trước thực trạng của đất nước, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân, đồng chí có nhiều đóng góp rất quan trọng với Đảng trong khẳng định chủ trương đổi mới. Vang mãi trong lòng đồng bào ta lời phát biểu của đồng chí trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI: "Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại". "Đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với đất nước và dân tộc ta". Tinh thần đó đã, đang và tiếp tục thúc đẩy những người cộng sản và nhân dân ta tiến lên.
Trên cương vị Cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí đã dành hết trí lực góp phần xây dựng Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chuẩn bị nội dung cho Đại hội lần thứ VII của Đảng.
Vừa là nhà chính trị, nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà báo, nhà thơ... đồng chí là sự thể hiện cực kỳ sinh động lương tâm, trí tuệ, tình cảm cách mạng cao đẹp và văn hóa của người chiến sĩ cách mạng, một nhà lãnh đạo cộng sản suốt đời phấn đấu theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng chí luôn là tấm gương sáng về sự kiên cường cách mạng, nguyên tắc và ý thức kỷ luật cộng sản, tình cảm chân thành với đồng bào, đồng chí, khiêm tốn, giản dị, phương pháp làm việc khoa học, thận trọng, cụ thể và thiết thực.
2 - Kiến trúc sư chiến lược - nhà tổ chức tài năng
Ba lần được tín nhiệm là Tổng Bí thư - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương (1941), Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam (1951) và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Trường Chinh không chỉ là một nhà chiến lược đã hoạch định đúng đắn và chính xác đường lối, chính sách của Đảng, mà còn là nhà tổ chức tài năng đã góp phần lãnh đạo, tổ chức toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi đường lối giải phóng dân tộc, và phát triển đất nước trong thế kỷ XX.
Nghị quyết Trung ương 8, được đồng chí Trường Chinh chuẩn bị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là bước hoàn chỉnh về sự thay đổi chiến lược, là "chính sách mới"(1) của Đảng, nhằm giải quyết đúng đắn mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược, đặt cơ sở cho việc tập hợp hết thảy mọi lực lượng của dân tộc dưới lá cờ của Đảng, tiến hành cuộc cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc.
Là linh hồn của cách mạng, nhưng vì những nhiệm vụ quốc tế, đồng chí Nguyễn Ái Quốc hai lần phải vắng mặt ở trong nước (từ tháng 8-1942 đến tháng 10-1944 và từ tháng 2 đến tháng 5-1945), trách nhiệm to lớn của Đảng và cách mạng đặt lên vai Tổng Bí thư của Đảng. Đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức triển khai Nghị quyết Trung ương 8, phát triển mạnh mẽ lực lượng chính trị với sự ra đời của các đoàn thể cứu quốc rộng rãi trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng các An toàn khu (ATK) và trên cơ sở đó, tổ chức lực lượng vũ trang. Nhờ đó, và trên cơ sở nắm chắc tình hình thế giới và trong nước, đồng chí và Thường vụ Trung ương Đảng đã phát hiện đúng sự đột biến của tình hình, để kịp thời ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", triệu tập Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thống nhất các lực lượng vũ trang, kiện toàn các chiến khu đã có, lập thêm các chiến khu mới, cử ra ủy ban Quân sự, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, kịp thời để khi thời cơ tới, tiến lên Tổng khởi nghĩa.
Khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, đồng chí gấp rút tổ chức thành công Hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội Quốc dân ở Tân Trào và thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí trực tiếp phụ trách. Với sự chuẩn bị chu đáo đó, chỉ trong nửa tháng, Tổng khởi nghĩa đã giành được thắng lợi trong cả nước.
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện chủ trương của Đảng "vừa kháng chiến vừa kiến quốc", góp phần thực hiện thành công sách lược "Hòa để tiến", vượt qua cam go của tình thế "ngàn cân treo sợi tóc," giữ vững thành quả cách mạng, xây dựng thành công Nhà nước dân chủ mới, tạo cơ sở pháp lý để động viên, tổ chức toàn dân chuẩn bị và bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập non trẻ.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí đã nhanh chóng vạch ra chiến lược chiến tranh ái quốc với tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" (năm 1947) và chỉ ra con đường phát triển của cách mạng Việt Nam qua Báo cáo "Luận cương cách mạng Việt Nam" (1951), góp phần đưa tới thắng lợi của cuộc kháng chiến ái quốc vĩ đại của dân tộc.
Đồng chí có nhiều đóng góp lớn lao vào việc xây dựng hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững chắc, cùng Bộ Chính trị chuẩn bị và đưa ra các quyết sách chiến lược lớn, dẫn tới thắng lợi trọn vẹn của sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Là người hoạt động nhà nước, đồng chí có những đóng góp nổi bật trong sự nghiệp xây dựng nhà nước kiểu mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Là Ủy viên Ủy ban dự thảo Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 1981), đến vị trí Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976) và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981 - 1987), đồng chí đã tham gia chỉ đạo soạn thảo và công bố nhiều đạo luật, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật ở nước ta, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
Trước thực tế khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước, đồng chí thâm nhập thực tế, tổng kết kinh nghiệm, tập hợp sáng kiến của nhân dân, tìm tòi lý luận và đề nghị với Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới. Đại hội VI khẳng định đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước sự đổ vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đây là sự nghiệp vĩ đại, đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Thắng lợi của công cuộc đổi mới khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra mà Trường Chinh là một trong những người đề xướng công cuộc đổi mới(2), là Tổng Bí thư của đổi mới(3).
3 - Nhà lý luận chính trị xuất sắc - nhà văn hóa lớn
Ba lần trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc về lý luận và chỉ đạo thực tiễn khởi nghĩa giành chính quyền, về chiến tranh nhân dân - toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; lý luận và tổ chức về xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đoàn kết toàn dân, thêm bạn, bớt thù; lý luận và chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và pháp luật; về công tác tư tưởng, công tác văn hóa - văn nghệ...
Những cống hiến đó thể hiện việc nắm vững chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ với sự hiểu biết sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời tỏ rõ năng lực tư duy sáng tạo và đúng đắn của Trường Chinh. Vì vậy, những chiến lược, sách lược mới do đồng chí đề xuất và những vấn đề thực tiễn do đồng chí tổng kết đã trở thành lý luận và những bài học lớn của Đảng ta.
Ngày nay, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta luôn ghi nhớ ba bài học lớn mà đồng chí đã tổng kết:
Thứ nhất, "Sức mạnh của một nước, của cách mạng chính là ở nhân dân". Để thật sự phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phải tin tưởng ở nhân dân, mọi chủ trương, chính sách đều phải lấy dân làm gốc. Cha ông ta từ xưa đã nghĩ và làm như vậy. Trong thời đại ngày nay, từ tiền khởi nghĩa đến Cách mạng Tháng Tám, chống mọi kẻ thù xâm lược, Đảng ta đều làm như vậy. Đi lên chủ nghĩa xã hội ngày nay lại càng phải làm như vậy. Bài học "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng", trước đây rất quan trọng, bây giờ càng quan trọng, đó là bài học lịch sử vô giá của cách mạng nước ta(4).
Thứ hai, Đảng cần phải tôn trọng quy luật khách quan, phải vận dụng nó một cách đúng đắn vào thực tế cách mạng nước ta.
Đồng chí lưu ý chúng ta rằng: "Chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên những nguyên lý chung có tính phổ biến. Song vận dụng những nguyên lý đó vào hoàn cảnh Việt Nam như thế nào là việc của chúng ta phải làm; không ai có thể làm thay chúng ta được. Muốn vậy, phải xuất phát từ thực tế Việt Nam, với những con người Việt Nam cụ thể, với điều kiện phát triển cụ thể của lịch sử, của nền kinh tế, của điều kiện xã hội, của những truyền thống Việt Nam"(5).
Chúng ta phải vận dụng đúng đắn, trải qua sự kiểm nghiệm của thực tế mà điều chỉnh các chính sách nhằm vận dụng ngày càng nhuần nhuyễn và đúng đắn hơn cả hệ thống các quy luật đó, không chỉ vận dụng riêng một quy luật nào. Mọi chính sách làm giảm nhiệt tình lao động của quần chúng, gây trở ngại, thậm chí làm đình đốn sản xuất, bế tắc lưu thông, làm cho đời sống khó khăn, tiêu cực phát triển, xã hội rối loạn, là biểu hiện của sự vận dụng không đúng đắn các quy luật khách quan, đều phải bãi bỏ hoặc sửa đổi.
Đồng chí khẳng định: Tôn trọng quy luật khách quan, vận dụng đúng đắn, hành động theo quy luật chính là cách đi lên chủ nghĩa xã hội đúng nhất và nhanh nhất, không có con đường nào khác.
4 - Phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng
Đảng phải phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, hướng họ vào việc tự giác hành động theo quy luật. Lực lượng hùng hậu của Nhà nước, tiềm năng to lớn của nhân dân lao động có được phát huy đầy đủ hay không chính là ở chỗ lực lượng đó, tiềm năng đó có được hướng vào việc hành động hợp quy luật hay không.
Đồng chí cho rằng, quá trình lãnh đạo cách mạng dày dạn của Đảng ta đã chứng minh tính đúng đắn và sáng tạo trong việc kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, các yếu tố chủ quan và sức mạnh của nhân dân với yếu tố khách quan về sự vận động của hệ thống quy luật. Do đó, cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, cần tăng cường đoàn kết trong Đảng trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ trương, đường lối của Đảng. Trước tình hình khó khăn phức tạp, có những ý kiến khác nhau là lẽ bình thường. Chúng ta cần chân thành, thẳng thắn, có thái độ xây dựng trong khi thảo luận để tìm ra chân lý, nhằm đạt tới nhất trí cao, hết sức tránh vội vàng quy chụp. Tình hình hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải có bước đổi mới trong phong cách làm việc theo tác phong Hồ Chí Minh, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ. Phải giữ vững tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng cũng như trong lãnh đạo kinh tế - xã hội.
Đồng chí nhấn mạnh: Chúng ta đang đứng trước tình hình đặc biệt, bên cạnh những thuận lợi, có rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Để bảo đảm hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược trong tình hình mới, việc củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định.
Ba bài học này hoàn toàn có giá trị hiện thực với chúng ta ngày nay.
Quyết tâm chiến đấu cho độc lập dân tộc với tư cách của một người cộng sản, một nhà chính trị, nhưng trong quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí Trường Chinh đã kế thừa và không ngừng hoàn thiện, nâng cao vốn văn hóa của mình bằng những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại để luyện thành một nhân cách văn hóa lớn, có nhiều đóng góp quan trọng hình thành đường lối lãnh đạo và lý luận của Đảng về văn hóa.
Từ trong vận động Cách mạng Tháng Tám, đồng chí đã sớm đặt cơ sở lý luận cho việc xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Các tác phẩm "Đề cương văn hóa Việt Nam", "Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam lúc này", "Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam" được coi là những tác phẩm đặt cơ sở lý luận cho đường lối xây dựng nền văn hóa - văn nghệ cách mạng của Việt Nam. Trường Chinh là hiện thân của công tác tư tưởng và công tác văn hóa - văn nghệ của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng con người ở nước ta.
Là nhà báo cách mạng nổi tiếng, vừa là người tổ chức, chỉ đạo báo chí của Đảng, đồng chí đã trực tiếp viết nhiều bài báo với tính chiến đấu cao, có sức thuyết phục mạnh mẽ và cổ động cách mạng sâu rộng. Những bài báo đó là một bộ phận trọng yếu trong di sản tư tưởng và lý luận của Trường Chinh và giữ một vị trí đặc biệt trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam.
Với bút danh Sóng Hồng, Trường Chinh là một nhà thơ cách mạng với những bài thơ thể hiện sức chiến đấu cao và lòng nhân ái sâu sắc. Những người cầm bút, các nhà hoạt động văn hóa - văn nghệ và báo chí không thể nào quên tuyên ngôn của đồng chí:
Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền".
Là nhà lãnh đạo chính trị cộng sản, đồng chí luôn luôn đứng ở tầm cao văn hóa của dân tộc để suy nghĩ và sáng tạo. Là nhà văn hóa lớn, đồng chí đã hiến dâng toàn bộ trí tuệ và tài năng cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Do vậy, ở đồng chí, văn hóa đã làm phong phú thêm chính trị, và chính trị đã soi đường cho văn hóa.
5 - Phẩm chất chính trị kiên định của một trí tuệ sáng tạo
Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau của cách mạng nước ta, lúc nào đồng chí cũng đem hết sức lực, trí tuệ để cống hiến cho Đảng và dân tộc, luôn trau dồi kiến thức, lắng nghe ý kiến đồng bào, đồng chí và quan tâm tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ và góp phần xây dựng đường lối của Đảng.
Trước những biến cố phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, là người hoạch định và quyết định chiến lược mới trong cách mạng giải phóng dân tộc, hoạch định đường lối kháng chiến, đề xuất đường lối đổi mới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lại là người chịu trách nhiệm trước Đảng và dân tộc tổ chức thực thi những đường lối ấy, đồng chí luôn tỏ rõ thái độ dứt khoát, khẳng định bản lĩnh chính trị và trí tuệ khoa học của người Tổng Bí thư của Đảng.
Trong thời kỳ đầu của mỗi giai đoạn cách mạng, đặc biệt là trước những bước ngoặt lịch sử, việc tỏ rõ thái độ và khẳng định những vấn đề quan điểm có tính nguyên tắc có giá trị quan trọng trong thống nhất tư tưởng của toàn Đảng, toàn dân trong đấu tranh cách mạng và giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong hòa bình, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng chí luôn lưu ý Đảng phải nhìn thẳng vào sự thật, phải thấy những thuận lợi, nhưng đồng thời phải thấy được các thiếu sót chủ quan và Đảng phải luôn có tinh thần dũng cảm tự phê phán mạnh mẽ và triệt để. Đổi mới cũng "dựa trên những bài học được đúc kết từ những thắng lợi đã đạt được và những khuyết điểm, sai lầm"(6). Để không mắc tiếp các sai lầm, Đảng phải thật sự đổi mới tư duy và phong cách, có như vậy mới hiểu được thực chất của hiện trạng, phân biệt rõ đúng sai, phát huy được nhân tố tiến bộ, gạt bỏ được những sai lầm. Từ đấy mở ra một trình độ mới trong nhận thức và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, khơi dậy được tính chủ động, sáng tạo vô tận của nhân dân lao động, phát huy được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội để đưa đất nước tiến lên.
Đồng chí xác định, để tiến hành công cuộc đổi mới ở bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, cần phải chuẩn bị trước về cơ sở lý luận làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở lý luận đúng đắn dẫn đường, tiến hành thiết kế các cơ chế quản lý cụ thể cũng như soạn thảo các chính sách, biện pháp phù hợp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống. Phương pháp tư duy đúng đắn là không thừa nhận sự cường điệu hóa, nhấn mạnh mặt này coi nhẹ mặt kia, hoặc nhân danh đổi mới để phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề xuất những giải pháp vô nguyên tắc, xóa nhòa ranh giới có tính nguyên tắc giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, Đảng phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, xứng đáng niềm tin yêu và hy vọng của nhân dân. Phải hết sức coi trọng và đặt lên trước hết vấn đề soạn thảo chiến lược và sách lược của Đảng, đáp ứng đúng yêu cầu cách mạng trong từng thời kỳ để định hướng cho xã hội tiến lên. Trước sự phát triển mới của tình hình, Đảng lại càng phải nâng cao các phẩm chất đó lên một trình độ mới.
Đồng chí Trường Chinh thể hiện nổi bật phẩm chất chính trị kiên định, sự tận tụy, lòng trung thành của người cộng sản, tài năng tổ chức và trí sáng tạo của một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng và dân tộc ta.
6 - Tấm gương nhân cách của nhà lãnh đạo cộng sản
Đồng chí Trường Chinh luôn có mặt ở những nơi nguy hiểm khó khăn, chung lưng đấu cật với đồng chí, hòa mình vào nhân dân, vượt lên ngục tù và án tử hình của chế độ thực dân, suốt đời phấn đấu vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì độc lập của dân tộc, tự do cho nhân dân, vì hạnh phúc của con người Việt Nam.
Trước những sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, đồng chí nhận trách nhiệm, xin từ chức Tổng Bí thư để nhận nhiệm vụ Trưởng Ban sửa sai và hoàn thành nhiệm vụ này một cách nghiêm túc, giữ vững uy tín của Đảng.
Những người cộng sản luôn nhớ di huấn của đồng chí: "Công tác cách mạng của chúng ta có thành tích và cũng có sai lầm. Điều cốt yếu là Đảng ta tránh được những sai lầm về đường lối cách mạng, và một khi phạm sai lầm dù lớn dù nhỏ đều thành khẩn nhận hết sai lầm và kiên quyết sửa chữa...Vì đường lối cách mạng của Đảng ta đúng, bản chất chế độ ta tốt, quần chúng nhân dân ta nói chung vẫn tin tưởng ở Đảng ta và Chính phủ ta, cho nên ta có điều kiện tốt để sửa sai và tiến lên"(7)
Đổi mới - lúc đầu, ý kiến còn khác nhau. Đồng chí đã tỏ rõ nhân cách của người cộng sản: kiên trì, thẳng thắn đấu tranh vì mục tiêu của Đảng, mà không gì khác hơn là sự phục hưng dân tộc và phát triển đất nước, để vượt lên mọi khó khăn dẫn dắt toàn Đảng tiến lên và trở thành một trong những nhân vật hàng đầu khởi xướng của công cuộc đổi mới.
Là người chan hòa, rộng lượng, đồng chí lấy đoàn kết làm trọng và bảo vệ sự thống nhất trong Đảng như bảo vệ con ngươi của mắt mình. Đồng chí là một người chồng, người cha, người ông mẫu mực, nghiêm nghị và nhân từ. Đó là một nhân cách cao thượng và trong sáng, một tấm gương đem lại niềm tự hào cho những người cộng sản.
* *
Luôn xuất hiện trong mỗi bước ngoặt của lịch sử nước ta trong thế kỷ XX, góp phần thúc đẩy cách mạng nước ta tiến lên những chặng đường phát triển mới phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại và của thời đại mới, với những cống hiến xuất sắc cho cách mạng, Đảng và dân tộc ta đã tôn vinh đồng chí Trường Chinh là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam.
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 7, tr 115
(2) Trường Chinh - một nhân cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 26
(3) Sđd, tr 36
(4) Trường Chinh: Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 12
(5) Trường Chinh: Sđd, tr 12
(6) Trường Chinh: Sđd, tr 16
(7) Trường Chinh: Tạp chí Học tập, số 11 - 12, năm 1956, tr 23
Quê hương Nam Định với đồng chí Trường Chinh  (07/02/2007)
Giá trị lớn lao, sức sống bền vững của Tuyên ngôn Đảng cộng sản  (06/02/2007)
Hội nhập quốc tế và vai trò lãnh đạo của Đảng ta  (06/02/2007)
Quy phạm pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của thanh niên  (06/02/2007)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm