Đối ngoại Thành phố Hồ Chí Minh: Tiên phong hội nhập, kiến tạo động lực phát triển, nâng tầm vị thế Việt Nam

Lê Thùy Trang - Nguyễn Thị Hương Giang
Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh
21:27, ngày 24-10-2025

TCCS - Với những biến chuyển lớn của thời đại, Việt Nam đứng trước cơ hội và thách thức đan xen trên con đường hiện thực hóa khát vọng trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới, công tác đối ngoại cần tiếp tục đổi mới, trong đó đối ngoại địa phương là một trong những trụ cột quan trọng. Kinh nghiệm đi đầu, sáng tạo và thành công trong hoạt động đối ngoại của Thành phố Hồ Chí Minh cần tiếp tục được phát huy và nhân rộng, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Tiên phong mở đường, góp phần nâng cao vị thế đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nước ta phải đối diện với những thách thức to lớn trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Hậu quả nặng nề của chiến tranh cùng sự bao vây, cấm vận kinh tế từ nhiều quốc gia không thuộc khối xã hội chủ nghĩa đã tạo ra sức ép gay gắt đối với tiến trình phát triển. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã điều chỉnh chiến lược quan trọng trong tư duy và thực tiễn đối ngoại, từng bước chuyển từ thế “phòng thủ” sang đường lối đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động hội nhập quốc tế. Trong tiến trình ấy, đối ngoại được xác định là mặt trận trọng yếu, giữ vai trò phá thế bao vây, mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút nguồn lực bên ngoài và nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, quan điểm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” đã được khẳng định như một nguyên tắc nền tảng, mang ý nghĩa định hướng lâu dài cho đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Thành phố Hồ Chí Minh cùng các đại biểu tham quan triển lãm ảnh về ngành ngoại giao, tháng 8-2025_Ảnh: Tư liệu

Trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn sau chiến tranh, thể hiện rõ đường lối đối ngoại nhất quán của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, triển khai nhiều hoạt động cứu trợ nhân đạo cho Campuchia. Thành phố đã thành lập các trung tâm tiếp nhận, hỗ trợ người tị nạn Campuchia, phối hợp với Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cung cấp các nhu yếu phẩm thiết yếu, góp phần ổn định cuộc sống cho cộng đồng này(1). Sau khi Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng ngày 7-1-1979, với vai trò trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất cả nước, Thành phố tiếp tục cử nhiều đoàn chuyên gia, dốc sức hỗ trợ công cuộc tái thiết; đồng thời đảm nhận nhiệm vụ kết nghĩa với Thủ đô Phnôm Pênh, triển khai nhiều hoạt động giúp khôi phục điện, nước, y tế, giáo dục và văn hóa - xã hội, đưa đời sống nhân dân sớm trở lại bình thường(2). Những nỗ lực ấy không chỉ mang giá trị nhân đạo sâu sắc, giúp nhân dân Campuchia vượt qua thảm họa diệt chủng, mà còn đặt nền móng cho mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị đặc biệt giữa hai thành phố, đồng thời góp phần quan trọng làm thay đổi góc nhìn của quốc tế về Việt Nam.

Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả tại Campuchia giai đoạn 1979 - 1989, Thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng bước vào giai đoạn phát triển mới, gắn liền với những dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước. Thành phố vừa góp phần cụ thể hóa chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, vừa nỗ lực thúc đẩy ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển đất nước. Năm 1982, Thành phố lần đầu tiên đón tiếp khoảng 100 doanh nghiệp và nhà đầu tư Hoa Kỳ cùng 40 nhà báo quốc tế đến tìm hiểu cơ hội hợp tác kinh tế - sự kiện có ý nghĩa mở đầu cho làn sóng tiếp xúc, thăm dò đầu tư từ bên ngoài trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn chịu cấm vận. Thành phố Hồ Chí Minh trở thành địa phương đi đầu trong cả nước, mở ra các hợp tác quốc tế “tiên phong” giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Năm 1994 đánh dấu bước ngoặt quan trọng khi San Francisco trở thành thành phố đầu tiên của Hoa Kỳ thiết lập quan hệ kết nghĩa với Thành phố Hồ Chí Minh. Cùng năm, sự ra đời của Hiệp hội Doanh nghiệp Hoa Kỳ và Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã mở ra những kênh hợp tác thiết thực trong thương mại và giáo dục, góp phần phá thế bao vây, cấm vận mà Hoa Kỳ áp đặt đối với nước ta. Thực tế trên là minh chứng điển hình cho vai trò tiên phong, sáng tạo của Thành phố trong triển khai đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, cũng như khẳng định sự đóng góp đặc biệt của Thành phố vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Sau khi đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, Đảng ta đã điều chỉnh mạnh mẽ đường lối đối ngoại theo hướng ưu tiên ngoại giao kinh tế, mở rộng không gian hợp tác, thu hút nguồn lực và nâng cao vị thế trên các vấn đề toàn cầu. Lúc này, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương đi đầu thực hiện cụ thể hóa đường lối đó. Thành phố đã tiến hành cải cách môi trường đầu tư, thành lập các tổ công tác chuyên trách hỗ trợ doanh nghiệp, duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa chính quyền với cộng đồng doanh nghiệp để góp phần hiện thực hóa chủ trương “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” của Việt Nam. Nhờ vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Thành phố không ngừng gia tăng: nếu giai đoạn 2005 - 2009 đạt 14 tỷ USD thì giai đoạn 2010 - 2015 tăng lên 15,6 tỷ USD và giai đoạn 2016 - 2020 đạt gần 30 tỷ USD(3). Điều này không chỉ khẳng định vị thế hàng đầu của Thành phố Hồ Chí Minh trong thu hút FDI, mà còn minh chứng hiệu quả của hoạt động đối ngoại trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng hướng đến bền vững và củng cố vai trò trung tâm kinh tế - tài chính của khu vực phía Nam.

Bên cạnh những thành tựu trong ngoại giao kinh tế, đối ngoại Thành phố Hồ Chí Minh cũng tích cực, chủ động triển khai nhiều hoạt động đối ngoại nhân đạo, thể hiện đúng tinh thần “là một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”. Với thế và lực của mình, Thành phố đã trực tiếp hỗ trợ các đối tác truyền thống vượt qua khó khăn. Điển hình, ngày 31-8-2022, trước thảm họa hỏa hoạn tại bể chứa dầu thô ở tỉnh Matanzas (Cuba), với tinh thần trách nhiệm và tình đoàn kết quốc tế trong sáng, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Thành phố đã chủ động cam kết hỗ trợ 250.000 USD(4). Trong bối cảnh Cuba đang chịu cấm vận, khi các kênh hỗ trợ chính thức từ Trung ương gặp nhiều trở ngại, việc Thành phố trực tiếp hiện thực hóa cam kết này càng mang ý nghĩa đặc biệt. Đến tháng 8-2023, Thành phố tiếp tục hỗ trợ 1.200 tấn gạo cho Cuba trong lúc khan hiếm lương thực do cấm vận, qua đó khẳng định vai trò tiên phong, nghĩa tình và trách nhiệm quốc tế (5).

Có thể khẳng định rằng, từ sau năm 1975, Thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện vai trò tiên phong, sáng tạo trong triển khai công tác đối ngoại, trực tiếp góp phần hiện thực hóa đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Thành phố nhiều lần trở thành địa phương mở đường với những sáng kiến đột phá, từ hỗ trợ nhân đạo cho bạn bè truyền thống, thử nghiệm đối ngoại địa phương với Hoa Kỳ, đến đi đầu trong ngoại giao kinh tế và thu hút FDI. Sự chủ động trong các hoạt động nhân đạo quốc tế càng cho thấy tính linh hoạt của đối ngoại Thành phố trong việc bổ sung, làm giàu cho chính sách đối ngoại chung. Rõ ràng, Thành phố không chỉ là “người thực thi” mà còn là “người mở đường”, góp phần nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.

Thành phố biết tận dụng, phát huy các yếu tố “đặc biệt” để công tác đối ngoại thành công

Có được những thành tựu trên là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong đường lối đối ngoại, đồng thời Đảng bộ, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện tính năng động, sáng tạo, biết tận dụng, phát huy các yếu tố “đặc biệt” gắn liền với bản sắc và vị thế của Thành phố, cụ thể:

Thứ nhất, Thành phố là điển hình sinh động, thể hiện rõ nét tính năng động, sáng tạo và chủ động trong đối ngoại địa phương. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, quốc gia không còn là chủ thể duy nhất trong hệ thống quan hệ quốc tế, mà ngày càng nổi bật vai trò của các chủ thể phi nhà nước, trong đó có các địa phương, với cơ chế gọn nhẹ, linh hoạt, dễ thích ứng và kiểm soát, có khả năng tập trung nguồn lực, trực tiếp xử lý hiệu quả những vấn đề liên quan, phát sinh.

Thứ hai, Thành phố đã phát huy lợi thế là động lực phát triển kinh tế, cầu nối hiệu quả để Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí chiến lược đặc biệt khi nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm phía Nam - khu vực năng động, đóng góp trên 30% GDP cả nước. Với hệ thống cảng biển quốc tế Cát Lái, Hiệp Phước, cụm cảng Cái Mép - Thị Vải lân cận;  sân bay Tân Sơn Nhất - cửa ngõ hàng không lớn nhất Việt Nam, Thành phố trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa, dịch vụ và dòng vốn quốc tế. Đây cũng là địa phương thu hút FDI lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 15% tổng vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời tập trung đông đảo cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp toàn cầu.

Thứ ba, Thành phố sở hữu lợi thế nổi bật về nguồn lực để triển khai hiệu quả các nhiệm vụ đối ngoại quốc gia. Trong khuôn khổ ngoại giao Việt Nam được thực hiện thống nhất, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, Thành phố có điều kiện thuận lợi để phát huy các sáng kiến và triển khai hoạt động đối ngoại. Tiềm lực mạnh mẽ của một siêu đô thị không chỉ tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế, còn là nhân tố chủ chốt trong thúc đẩy ngoại giao kinh tế, góp phần cụ thể hóa đường lối đối ngoại quốc gia.

Thứ tư, Thành phố là đô thị năng động, có độ mở và linh hoạt cao trong chính sách. Thành phố rất chú trọng cải cách môi trường đầu tư, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thiết lập cơ chế đối thoại thường xuyên với doanh nghiệp, đồng thời được Trung ương cho phép thí điểm nhiều chính sách mới, qua đó tạo dựng lòng tin với các nhà đầu tư quốc tế và trở thành nơi thí điểm, lan tỏa nhiều mô hình phát triển. Sự linh hoạt và tiên phong này không chỉ giúp Thành phố trở thành điểm đến hấp dẫn của dòng vốn, công nghệ, nhân lực quốc tế mà còn khẳng định vai trò cầu nối quan trọng trong việc hiện thực hóa đường lối đối ngoại quốc gia. Những thành công trong thu hút FDI, mở rộng quan hệ hợp tác và thúc đẩy ngoại giao nhân dân đã minh chứng cho khả năng chuyển hóa chủ trương vĩ mô thành kết quả cụ thể ở cấp địa phương.

Bên cạnh những thành tựu nổi bật, ngoại giao của Thành phố Hồ Chí Minh trong gần nửa thế kỷ qua cũng còn bộc lộ một số hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận, đó là: (i) Khả năng chuyển hóa các thỏa thuận và cam kết quốc tế thành kết quả cụ thể cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố còn chưa đồng đều. Một số khuôn khổ hợp tác, bản ghi nhớ được ký kết nhưng chưa tạo ra đủ dự án khả thi, có sức lan tỏa thực sự(4); (ii) Khung pháp lý và cơ chế thử nghiệm cho đối ngoại địa phương trong những lĩnh vực mới như tài chính xanh, kinh tế số, đổi mới sáng tạo chưa được hình thành rõ nét. Song song đó, cơ chế phối hợp liên ngành và liên cấp đôi khi vẫn mang tính vụ việc, thiếu khung thể chế tích hợp để kết nối ngoại giao với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, dẫn đến việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong những sáng kiến lớn như tài chính quốc tế, đổi mới sáng tạo, đô thị xanh… chưa thực sự hiệu quả, hạn chế điều kiện thử nghiệm những mô hình tiên phong; (iii) Nguồn lực dành cho đối ngoại địa phương chưa tương xứng với yêu cầu mới. Từ nhân lực chuyên môn cao (ngoại ngữ hiếm, kỹ năng số, đàm phán quốc tế) đến kinh phí, hạ tầng công nghệ thông tin, công cụ phân tích dữ liệu, tất cả đều bộc lộ những khoảng trống so với nhu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng; (iv) Công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược chưa theo kịp biến động nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực. Mối liên kết giữa công tác nghiên cứu - tham mưu - triển khai trong nội bộ Thành phố và với các viện, trường, chuyên gia quốc tế có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, khiến khả năng chủ động ứng phó và định hình xu hướng còn hạn chế…

Tiếp tục tiên phong trong kỷ nguyên phát triển mới phồn vinh, hạnh phúc

Thế giới hiện nay đối diện nhiều thách thức như chủ nghĩa bảo hộ, khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn… song hợp tác đa phương và phát triển bền vững vẫn là xu thế chủ đạo. Việt Nam có nhiều cơ hội nhưng cũng đối mặt với không ít thách thức trên con đường hội nhập, đặc biệt trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những biến động kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, ngoại giao giữ vai trò then chốt trong bảo vệ lợi ích quốc gia, duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh với vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, cửa ngõ giao thương quốc tế, nơi hội tụ dòng vốn, công nghệ, nhân lực và các cơ quan ngoại giao nên đòi hỏi phải phát huy hơn nữa vai trò đối ngoại địa phương, xem như động lực chiến lược, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và hiện thực hóa các mục tiêu phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Ngày 1-7-2025, được hợp nhất với tỉnh Bình Dương và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh bước vào tâm thế mới, được kỳ vọng trở thành điểm đột phá mới của nền kinh tế Việt Nam. Song hành với mức độ hội nhập cao, phụ thuộc lớn vào môi trường quốc tế, Thành phố cũng chịu tác động mạnh mẽ từ những chuyển dịch địa chính trị toàn cầu, qua đó đặt ra đòi hỏi cấp thiết phải tái định vị vai trò công tác đối ngoại địa phương, không chỉ tiếp tục phát huy những hành tựu đã đạt được mà còn vươn lên đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới. Để đạt được kỳ vọng này, bên cạnh phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, Thành phố nên:

Một là, tăng cường tính chủ động, sáng tạo, tiếp tục thể hiện vai trò tiên phong trong triển khai đường lối đối ngoại quốc gia theo tinh thần Nghị quyết số 59-NQ/TW, ngày 24-1-2025, của Bộ Chính trị, “Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới”. Đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo tình hình quốc tế, kịp thời đề xuất các sáng kiến hợp tác mới phù hợp với lợi ích chiến lược của quốc gia và tiềm năng thế mạnh của mình. Đồng thời, phát huy vai trò “đầu tàu” trong ngoại giao kinh tế qua mở rộng mạng lưới kết nối với các trung tâm tài chính, công nghệ, đổi mới sáng tạo toàn cầu, chủ động tham gia vào các sáng kiến khu vực và quốc tế.

Hai là, tái định vị, gắn chặt hơn với mục tiêu phát triển tổng thể của Thành phố, không chỉ dừng lại ở vai trò tiên phong trong ngoại giao chính trị, mà còn phải trở thành lực lượng trực tiếp đóng góp vào các dự án trọng điểm mang tính chiến lược. Trong giai đoạn tới, cần ưu tiên xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với các ngành kinh tế - quy hoạch, tài chính, khoa học - công nghệ để triển khai các dự án then chốt, đặc biệt là Trung tâm Tài chính quốc tế. Đối ngoại cần là kênh kết nối, khai thông nguồn lực, như đóng góp trong việc khơi mở kết nối giữa Trung tâm Tài chính Thành phố với các Trung tâm Tài chính toàn cầu.

Ba là, thí điểm áp dụng mô hình sandbox đối ngoại, xem đây là “khung thử nghiệm chính sách đối ngoại”. Khung thử nghiệm này cho phép Thành phố linh hoạt triển khai các mô hình hợp tác mới với đối tác quốc tế trong những lĩnh vực chiến lược, trước khi nhân rộng ở cấp quốc gia. Đơn cử, trong quá trình xây dựng Trung tâm Tài chính quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh có thể áp dụng thí điểm hợp tác trực tiếp với các trung tâm tài chính lớn như Singapore, Dubai hay Luxembourg trong các vấn đề như quản trị rủi ro, phát triển sản phẩm tài chính xanh hoặc các chuẩn mực pháp lý quốc tế. Với cơ chế linh hoạt, Thành phố có thể rút ngắn quy trình đàm phán, ký kết và triển khai các dự án hợp tác thí điểm, đồng thời vừa làm vừa đánh giá hiệu quả, để từ đó báo cáo, kiến nghị Trung ương hoàn thiện thể chế và nhân rộng cho các địa phương. Cách tiếp cận này không chỉ phát huy vai trò “phòng thí nghiệm chính sách đối ngoại” của Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn tạo đột phá trong thu hút nguồn lực, thử nghiệm cơ chế hợp tác quốc tế mới và đóng góp thiết thực cho tiến trình hội nhập sâu rộng của Việt Nam./.

--------------------------

(1) Vũ Hắc Bồng: “Công tác đối ngoại của TPHCM - 40 năm nhìn lại”, Báo Sài Gòn Giải phóng, ngày 24-6-2016, https://www.sggp.org.vn/cong-tac-doi-ngoai-cua-tphcm-40-nam-nhin-lai-post280176.html
(2) S. Hải: “TPHCM với cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia (1979 - 1989)”, Trang tin điện tủ Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20-7-2019, https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tuc/tphcm-da-hoan-thanh-xuat-sac-vai-tro-hau-phuong-trong-cong-cuoc-bao-ve-to-quoc-1491856261
(3) Phạm Thị Quý: “Cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút vốn FDI tại TP. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, ngày 30-7-2025, https://kinhtevadubao.vn/cai-thien-moi-truong-dau-tu-nham-thu-hut-von-fdi-tai-tp-ho-chi-minh-31977.html
(4) Ngô Bình: “Thắt chặt mối quan hệ hữu nghị hợp tác TPHCM - Cuba”, Báo Sài Gòn Giải phóng, ngày 22-8-2023, https://www.sggp.org.vn/that-chat-moi-quan-he-huu-nghi-hop-tac-tphcm-cuba-post702624.html
(5) Hoàng Thị Hoa: “TP Hồ Chí Minh hỗ trợ Cuba khắc phục hậu quả hỏa hoạn tại Matanzas”, Trung tâm Báo chí Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 22-4-2023, https://ttbc-hcm.gov.vn/tp-ho-chi-minh-ho-tro-cuba-khac-phuc-hau-qua-hoa-hoan-tai-matanzas-1004684.html
(6) “Phát biểu khai mạc của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn tại Hội thảo Ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh”, Báo điện tử Chính phủ, ngày 28-7-2025, https://baochinhphu.vn/phat-bieu-khai-mac-cua-pho-thu-tuong-bo-truong-ngoai-giao-bui-thanh-son-tai-hoi-thao-ngoai-giao-thoi-dai-ho-chi-minh-102250728162638844.htm