TCCS - Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII với 486/488 phiếu tán thành, đạt tỷ lệ 97,59%, trong đó khẳng định tính chất của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là khẳng định quan trọng, đúng đắn và tất yếu đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

1- Hiện nay, nhiều nền kinh tế thị trường (KTTT) trên thế giới với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học công nghệ đã kéo theo những biến đổi mạnh mẽ về mọi mặt, nhưng cùng với nó là những nguy cơ không thể tự giải quyết nổi, đó là:

-
Kinh tế phát triển mạnh mẽ, nhưng đi liền với nó là bất công xã hội. Thực trạng của Hoa Kỳ và các nước tư bản phát triển là minh chứng về những xã hội giàu có tăng lên nhưng cùng với nó là bất công xã hội. Nhiều con số thống kê cho thấy, 20% số dân giàu của họ chiếm tới gần 90% thu nhập, trong khi 20% số dân nghèo nhất chỉ chiếm chưa đầy 2% thu nhập. Và bất cập này ngày càng có xu hướng gia tăng(1). Chính bất công xã hội lại trở thành lực cản, phá hoại tăng trưởng các nền kinh tế đó.

-
Thế giới hiện nay đang có sự mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với sự phát triển xã hội. Ở nhiều quốc gia, đi kèm với tăng trưởng kinh tế là khủng hoảng xã hội về đạo lý và đời sống tinh thần. Tăng trưởng kinh tế không có mục đích tự thân. Tăng trưởng kinh tế nhằm phát triển xã hội, phát triển con người. Nhưng ở các nước này, đi cùng với tăng trưởng kinh tế là sự băng hoại của xã hội và con người, là sự xuống cấp của đời sống tinh thần, đạo đức. Những biểu hiện đó sẽ đe dọa sự phát triển của kinh tế, không thể là điều kiện bảo đảm sự phát triển liên tục.

-
Sự mất ổn định về chính trị ở nhiều quốc gia. Nhiều quốc gia với nền KTTT đã đạt được những thành tựu về tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn chứa đựng đầy bất ổn. Sự giàu có về vật chất không đem lại sự ổn định về chính trị, là hậu quả của tăng trưởng phiến diện, tăng trưởng không đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội và nhân sinh. Tình hình bất ổn ở các nước Trung Đông, Bắc Phi hay một số nước châu Âu thời gian qua là minh chứng rõ rệt nhất.

Bên cạnh đó, một nguy cơ nữa cũng phải kể đến, đó là tăng trưởng của nhiều nước tư bản vừa qua đã tàn phá môi trường, có nguy cơ phá vỡ môi sinh. Phá vỡ môi sinh, tự nó sẽ đe dọa tăng trưởng kinh tế. Liên hợp quốc đã có sự báo động toàn cầu về tình hình môi sinh hiện nay, mà trong đó các nước tư bản phát triển gây ảnh hưởng lớn nhất. Nếu thập niên 80 thế kỷ XX, diện tích rừng bị tàn phá bình quân 11 triệu ha/năm, thì những năm gần đây con số đó lên đến 17 triệu ha/năm. Theo tính toán mới nhất của Liên hợp quốc, loài người có thể thiệt hại lên đến 15.000 tỷ USD nếu nhiệt độ trái đất tiếp tục tăng thêm 2 - 3 độ C.

Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia tuy tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng vẫn ở trong tình cảnh tồi tệ nếu xét ở các góc độ như trình độ học vấn, sức khỏe, tuổi thọ và dinh dưỡng trung bình của người dân. Chưa kể các tổn hại về môi trường gây ra bởi quá trình tăng trưởng kinh tế làm ảnh hưởng đến điều kiện sống trước mắt và lâu dài của người dân. Đương thời, khi khái quát tính nghịch lý trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, Phu-ri-ê cho rằng trong giai đoạn văn minh, sự nghèo khổ chính là do sự dồi dào mà ra. Cũng trên tinh thần đó, C.Mác viết: Trong chủ nghĩa tư bản, sự phát triển của kinh tế đi liền với sự suy đồi về đạo đức.

Như vậy, thực tế, cùng với phát triển kinh tế, tồn tại một xu hướng khách quan, đó là:

- Công bằng xã hội đã trở thành đòi hỏi tất yếu của chính bản thân sự phát triển kinh tế. Công bằng để phát triển và phát triển để thực hiện công bằng không chỉ là khẩu hiệu mang tính đạo đức mà còn là động lực mạnh mẽ, yếu tố nội sinh của sự phát triển kinh tế. Tất nhiên, công bằng ở đây không phải theo nghĩa cào bằng, đánh đồng siêng năng với biếng nhác, tích cực với tiêu cực, làm ăn hiệu quả với kém cỏi..., điều đó sẽ dẫn tới triệt tiêu động lực phấn đấu của con người.

- Tăng trưởng kinh tế mà đời sống tinh thần đạo đức xuống cấp sẽ đe dọa ngay đến sự phát triển bền vững của kinh tế. Yếu tố khách quan của cuộc sống đặt ra là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội là kết quả nhưng đồng thời cũng là động lực, yếu tố nội tại của sự phát triển kinh tế.

- Tăng trưởng phải đi cùng với sự ổn định về kinh tế, về chính trị và về xã hội. Chính sự ổn định trên các lĩnh vực này lại là tiền đề để phát triển kinh tế.

Phát triển kinh tế mà không bảo đảm các xu hướng phát triển này tất yếu sẽ dẫn đến đổ vỡ. Nhà nước tư sản với bản chất là đại diện và bảo vệ quyền lợi chủ yếu cho một nhóm người, mà trước hết là những tập đoàn tư bản lớn sẽ không bao giờ bảo đảm được tuyệt đối sự phát triển của các xu hướng đó. Để làm được điều này thì
nền kinh tế đó phải chịu sự chi phối của một nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Chỉ có nhà nước đó mới bảo đảm được lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, mới định hướng vào sự phát triển của từng cá nhân, đồng thời là sự phát triển của tập thể, cộng đồng và xã hội.

2
- Kế thừa và phát triển đường lối đổi mới của Đại hội VI, tại Đại hội VII, Đảng ta lần đầu tiên đưa ra khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khái niệm này nhấn mạnh đặc trưng của nền KTTT ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Đến Đại hội VIII, Đảng ta đã có bước phát triển mới với chủ trương: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa(2). Đến Đại hội IX, khái niệm KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) chính thức được đưa vào Văn kiện, trong đó khẳng định: Phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây là nền KTTT có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước XHCN, được định hướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của thị trường nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Có thể nói, đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng ta trên lĩnh vực kinh tế. Kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn KTTT định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Định hướng XHCN của nền KTTT thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

- Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”;

- Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân;

- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển;

- Có sự quản lý của Nhà nước, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Như vậy, về bản chất KTTT định hướng XHCN mà chúng ta xây dựng hoàn toàn khác với KTTT của các nước tư bản bởi mấy đặc trưng sau:

Một là
, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có mục đích phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng mặt khác vẫn chịu sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Có thể nói, đây là một hình thái kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội.

Hai là
, cũng như các nền KTTT ở các nước tư bản, nền KTTT ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Nhưng nếu như trong nền KTTT tư bản chủ nghĩa sở hữu tư bản tư nhân chiếm vị trí thống trị, thì ở nước ta kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Ba là
, KTTT ở Việt Nam cũng như KTTT ở các nước tư bản đều chịu sự quản lý của nhà nước, nhưng hai nhà nước khác nhau về bản chất. Nhà nước tư sản chủ yếu bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, trước hết là những tập đoàn tư bản lớn, còn Nhà nước của ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên sẽ bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể nhân dân.

Bốn là,
KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo tiền vốn, dẫn đến bất công xã hội, phân chia xã hội thành hai cực giàu nghèo đối lập, còn KTTT định hướng XHCN của ta thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội. Trong nền KTTT định hướng XHCN, tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong toàn bộ quá trình phát triển và ngay trong từng bước phát triển.

Với các đặc trưng của mình, nền KTTT định hướng XHCN có thể bảo đảm các yêu cầu nêu ở phần trên. Bởi chính những ưu việt của nền kinh tế theo cơ chế thị trường sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Nhưng tăng trưởng kinh tế thường đồng hành với bất bình đẳng, khi đó chính tính “định hướng XHCN” hay nói cách khác “ý chí chính trị” của Nhà nước pháp quyền XHCN có thể hạn chế bất bình đẳng, và chính sự bình đẳng này lại có tác động tích cực đáng kể đối với sự tăng trưởng bền vững.

Sau gần 30 năm đổi mới, với việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN, chúng ta đang dần nâng cao chỉ tiêu GDP theo đầu người, thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm nước trung bình, tiến lên gia nhập câu lạc bộ các nước giàu. Nhưng cũng không nhất thiết phải đạt được đến chỉ tiêu của các nước giàu nhất mới có chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, với một đường lối đúng đắn, phù hợp quy luật phát triển và với phương pháp tổ chức phân phối hợp lý, sự quan tâm đúng mức đến môi trường môi sinh, chúng ta có thể làm cho đại đa số dân ta hạnh phúc hơn các nước tư bản có cùng một mức GDP đầu người.
(3)

3
- Về nội hàm, kinh tế nhà nước (KTNN) bao gồm: Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 100% vốn nhà nước đã chuyển đổi hình thức theo Luật Doanh nghiệp và phần vốn, tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp khác đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; các quỹ và tài sản quốc gia khác (tài chính và phi tài chính) thuộc sở hữu nhà nước và các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước. Như vậy, có thể thấy, KTNN là khái niệm mở, nội hàm rộng, bao quát toàn bộ cơ cở vật chất - kinh tế thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện và thống nhất quản lý dưới nhiều dạng, thậm chí những cấu thành của chúng không thể tính toán hết bằng tiền; ví dụ, giá trị đất đai, tài nguyên khoáng sản trong lòng đất, lòng lãnh hải thuộc chủ quyền của Việt Nam...

Việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN là
phù hợp với điều kiện của nước ta và là tiêu chí quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN, thể hiện ở các mặt sau:

Thứ nhất,
vai trò chủ đạo của KTNN thể hiện rõ bản chất, đặc trưng của nền KTTT định hướng XHCN, hoàn toàn khác với KTTT ở các nước tư bản chủ nghĩa, được xây dựng trên cơ sở sở hữu tư bản độc quyền. Vai trò chủ đạo của KTNN xuất phát từ lợi ích của đất nước, của nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước phát huy tốt vai trò chủ đạo thì sự phát triển kinh tế sẽ gắn được với phát triển xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh.

Thứ hai,
KTNN có vai trò “đầu tàu”, hướng dẫn, dẫn dắt các hình thức sở hữu khác trong việc phát triển các lĩnh vực đặc biệt, như cần nhiều vốn đầu tư, có hàm lượng khoa học cao, một số lĩnh vực đặc biệt mới hình thành. Trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN, ngày càng xuất hiện nhu cầu hình thành một số lĩnh vực mới đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao mà tự nó rất khó phát triển. Trong điều kiện các quan hệ thị trường mới được phát triển, khu vực tư nhân còn nhỏ bé, chưa có khả năng đầu tư lớn, khu vực sở hữu nhà nước tất yếu phải đảm nhận vai trò “đầu tàu”, dẫn dắt trong những lĩnh vực mới này. Khi thực hiện vai trò này, không có nghĩa là sở hữu nhà nước giữ vai trò thống trị độc quyền vĩnh viễn mà vai trò “đầu tàu”, dẫn dắt thể hiện ở chỗ, khi các hình thức sở hữu khác đủ sức tham gia và có khả năng tham gia có hiệu quả, sở hữu nhà nước kịp thời rút vốn ra khỏi lĩnh vực đã đầu tư, để tiếp tục thực hiện vai trò của mình là đầu tư vào những lĩnh vực mới khác.

Thứ ba,
KTNN có vai trò chủ đạo sẽ bảo đảm phát triển năng lực cạnh tranh của quốc gia. Do lịch sử phát triển, KTNN đã đảm nhận một loạt ngành cạnh tranh, khu vực tư nhân chưa kịp phát triển, Nhà nước phải trực tiếp tham gia và đầu tư phát triển, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu đàn trong giai đoạn đầu. Trong quá trình phát triển, khi khu vực tư nhân lớn mạnh dần, KTNN dần dần rút lui hoặc chuyển đổi sở hữu và về lâu dài, KTNN hoàn toàn không cần chủ đạo ở lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh.

 
Thứ tư, đối với an ninh quốc gia, KTNN thể hiện vai trò ở hai nội dung cơ bản sau: Một là, nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến quốc phòng, an ninh quốc gia (sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị chuyên dùng cho quốc phòng, an ninh,...). Hai là, tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế (bán buôn lương thực, xăng dầu; sản xuất điện; khai thác khoáng sản quan trọng; một số sản phẩm cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin quan trọng; bảo trì đường sắt, sân bay,...).

Thứ năm,
về mặt xã hội, do bản chất về mặt sở hữu và mục đích hoạt động, KTNN có vai trò quan trọng trong gánh vác chức năng và vai trò xã hội. Vai trò này thể hiện ở chỗ, KTNN phải đảm nhận những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị - xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, thực hiện sự bảo đảm cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hóa công cộng thiết yếu, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, các chương trình xóa đói, giảm nghèo,...

Có thể thấy, việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN không có nghĩa là quay về quan niệm cũ, coi việc phát triển sở hữu nhà nước là mục tiêu phát triển kinh tế hoặc cho rằng, muốn xây dựng chế độ mới, cần trước hết phát triển sở hữu nhà nước (cải tạo quan hệ sản xuất), mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Ngay ở các nước có nền KTTT phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, khu vực KTNN cũng có vai trò quan trọng và tùy theo chiến lược quản lý của từng quốc gia, khu vực này có phạm vi và tỷ trọng khác nhau. Đối với nước ta, việc chuyển đổi sang nền KTTT đòi hỏi khu vực tư nhân phải được bình đẳng phát triển và dần dần khẳng định vị trí. Do vậy KTNN mặc dù vẫn giữ vai trò nòng cốt nhưng phạm vi, mức độ và hình thức phải có sự thay đổi cơ bản. Kinh tế nhà nước chỉ tồn tại và phát triển ở những lĩnh vực cần thiết, có vai trò hỗ trợ, dẫn đường bảo đảm cho sự phát triển ổn định của xã hội; khu vực nào mà các hình thức kinh tế khác có thể phát triển và có hiệu quả hơn sẽ không cần KTNN. Mặt khác, tính định hướng XHCN của nền kinh tế nước ta luôn đòi hỏi phải xác định một số lĩnh vực trọng yếu thực hiện mục tiêu chính trị - xã hội.

4
- Để bảo đảm vai trò chủ đạo và phát huy tốt nhất hiệu quả của khu vực KTNN, trước hết, cần nhận thức đúng về thành phần này, phải có sự phân biệt rõ giữa KTNN và DNNN. Thời gian qua, nhiều ý kiến cho rằng cần xem xét lại vai trò chủ đạo của thành phần KTNN đa số đều xuất phát từ nhầm lẫn này. Như đã nói ở trên, thành phần KTNN bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu, trong đó có DNNN. Như vậy, KTNN và DNNN có điểm chung đều là phần tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, phục vụ lợi ích toàn dân. Tuy nhiên, KTNN có phạm vi, vai trò rộng lớn hơn DNNN, nó không chỉ dựa trên hiệu quả sản xuất, kinh doanh của khu vực DNNN mà còn là tập hợp sức mạnh kinh tế thể hiện trên các ngành, lĩnh vực trọng yếu từ các định chế tài chính, pháp luật, sức mạnh quản lý, điều hành của hệ thống chính trị. Việc khẳng định vị thế và xây dựng KTNN giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là các DNNN sẽ giữ vị trí chi phối trong các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ chốt của nền kinh tế cũng như sẽ độc quyền trên nhiều lĩnh vực. Các DNNN, lực lượng nòng cốt của KTNN sẽ cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, tuy nhiên, với trọng trách của mình, sẽ tiên phong trong các lĩnh vực, ngành mũi nhọn, cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ tiên tiến, hiện đại, những lĩnh vực mà tư nhân không thể làm được hoặc không muốn làm, những ngành, lĩnh vực trọng yếu, liên quan đến an ninh quốc phòng,...

Như vậy, cần có cách tiếp cận đúng đắn với khối DNNN. Cần xác định DNNN chỉ là một bộ phận cấu thành của KTNN, do đó để bảo đảm vai trò chủ đạo của KTNN, DNNN không nhất thiết phải có vai trò chủ đạo, càng không cần nắm tỷ trọng cao và áp đảo ở tất cả các ngành, các lĩnh vực. Trong nền KTTT hiện đại, KTNN là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô nên sự tồn tại của nó là khách quan. Ở các nước phát triển, KTNN chỉ chiếm 10% - 15% GDP nhưng vẫn có thể thực hiện được sứ mạng đó. Vì vậy, để giữ vai trò chủ đạo, không nhất thiết KTNN phải chiếm tỷ trọng cao, mà nhất là tỷ trọng của khu vực DNNN. Việc chúng ta đặt mục tiêu đến năm 2015 đưa số DNNN hiện có từ 1.254 doanh nghiệp xuống còn 692 doanh nghiệp, tiến tới năm 2020 cơ bản các DNNN sẽ được cổ phần hóa, Nhà nước chỉ còn giữ lại khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước, công ích, an ninh quốc phòng là phù hợp theo xu hướng này.

Bên cạnh đó, cần tạo ra những DNNN có cơ cấu hợp lý, có sức cạnh tranh cao, tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Muốn vậy, điều kiện tiên quyết là phải thực hiện tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp này mà trọng tâm là cổ phần hóa, kể cả các tập đoàn kinh tế. Cần phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm 100% vốn, ngành nào cần nắm cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Cổ phần hóa DNNN, theo chủ trương chung, không phải là để tư nhân hóa DNNN mà là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, nhằm vừa sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước, vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh, vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN, vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các DNNN thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, các DNNN có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp luật; gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp; chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi...

Ngoài ra, cần có cơ chế bảo đảm để phân định rạch ròi nhiệm vụ chính trị - xã hội mà Nhà nước giao cho với lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với đó, xóa bỏ cơ chế chủ quản theo lối hành chính quan liêu, bao cấp đối với các DNNN, để các doanh nghiệp này được tự chủ trong cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng đồng vốn của Nhà nước trước các cơ quan tài chính. Hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước và đại diện chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra của chủ sở hữu nhà nước./.

------------------------------------

(1) Vào tháng 11-2013, thống kê tỷ phú toàn cầu do Wealth-X và Ngân hàng Thụy Sĩ UBS phối hợp thực hiện cho thấy, tổng giá trị tài sản ròng của các tỷ phú trên thế giới đã tăng thêm 226 tỷ USD trong vòng 1 năm qua. Từ năm 2009 tới nay, giá trị tài sản ròng của các tỷ phú trên toàn cầu đã tăng hơn gấp đôi, lên mức 6,5 nghìn tỷ USD từ mức 3,1 nghìn tỷ USD. Cùng với đó, số tỷ phú cũng tăng từ 810 người lên 2.170 người trong vòng 4 năm. Riêng tại Hoa Kỳ, giới giàu có đang nắm giữ tỷ lệ tài sản cao nhất trong gần 100 năm. Vào cuối năm 2012, số 1% người giàu nhất ở nước này chiếm 50,4% tổng tài sản cá nhân ở Mỹ, mức cao nhất kể từ năm 1917. Từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008, số 1% người giàu nhất ở Mỹ chứng kiến thu nhập tăng thêm 31,4%, trong khi số 99% dân số còn lại chỉ có mức tăng trưởng thu nhập 0,4%.

(2)
Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 459 - 460

(3) Báo cáo phát triển con người năm 2013 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho thấy, Việt Nam xếp thứ 127/187 quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia xếp hạng. Báo cáo đã phân tích những tiến bộ về phát triển con người ở Việt Nam dựa trên các chỉ số chính là HDI (chỉ số tổng hợp đo lường về y tế, giáo dục và thu nhập), GDI (chỉ số phát triển giới), chỉ số nghèo đói ở con người (HPI), chỉ số nghèo đói đa chiều (MPI). Với mức tăng 41% trong 2 thập niên qua, Việt Nam được xếp trong nhóm 40 nước đang phát triển đạt được những tiến bộ hơn cả mong đợi về phát triển con người trong những năm gần đây