TCCS - Ngày 23-9-2021, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND “Quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và đối tượng bảo trợ xã hội của thành phố Hà Nội”. Việc bảo đảm đời sống người dân, đặc biệt là các đối tượng người nghèo, người lao động bị mất việc làm, đối tượng bảo trợ xã hội nhằm góp phần nâng cao diện bao phủ của chính sách trong toàn xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội. 

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng thăm người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ đang được chăm sóc, nuôi dưỡng tại Trung tâm nuôi dưỡng và điều dưỡng người có công số 2 Hà Nội_Nguồn: baodansinh.vn

Tăng độ bao phủ chính sách trợ giúp xã hội - Hướng đi tích cực

Hiện nay, chế độ trợ cấp cho các đối tượng bảo trợ xã hội thực hiện theo quy định tại Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, ngày 10-4-2012, của Chính phủ “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật” và theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, ngày 21-10-2013, của Chính phủ “Quy định chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội”. Căn cứ các nghị quyết của Quốc hội khóa XIII: số 99/2015/QH13, ngày 11-11-2015 “Về dự toán ngân sách nhà nước năm 2016” và số 101/2015/QH13, ngày 14-11-2015 “Về phân bổ ngân sách trung ương năm 2016”, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2100/QĐ-TTg, ngày 28-11-2015 “Về việc giao dự toán ngân sách nhà nước năm 2016”, trong đó đã bố trí ngân sách để thực hiện trợ cấp cho tất cả các đối tượng theo mức quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP. Ngày 12-5-2016, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2016/TTLT-BLĐTBXH-BTC “Sửa đổi, bổ sung khoản 2 và khoản 4 Điều 11 Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC, ngày 24 tháng 10 năm 2014 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội”. Theo đó, các chính sách trợ giúp xã hội khác ngoài trợ cấp hằng tháng, đối tượng trợ giúp đột xuất và các đối tượng khác được hưởng chế độ theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP từ ngày 1-1-2016.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội hiện nay có nhiều vấn đề cần điều chỉnh do sự phát triển và phân hóa của các tầng lớp trong xã hội. Theo đó, nhiều chính sách khác về trợ cấp đã được điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển của đất nước, nhằm bảo đảm tính công bằng, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội có trên 206.000 đối tượng bảo trợ xã hội đang được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng; 100% đối tượng bảo trợ xã hội, người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng được thành phố Hỗ Nội hỗ trợ 100% mức đóng bảo hiểm y tế; 100% học sinh khuyết tật, học sinh là đối tượng bảo trợ xã hội được miễn học phí. Triển khai Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15-3-2021, của Chính phủ “Quy định chính sách trợ giúp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội” và Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND, ngày 23-9-2021, của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội “Quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và đối tượng bảo trợ xã hội của thành phố Hà Nội”, tại các trung tâm bảo trợ xã hội thành phố Hà Nội hiện đang chăm sóc, nuôi dưỡng 2.904 đối tượng bảo trợ xã hội. Trong đó, có 433 trẻ em không có nguồn nuôi dưỡng, 114 người cao tuổi cô đơn, 680 người khuyết tật, 1.250 người tâm thần, 427 người lang thang vô gia cư. 

Với tinh thần quyết tâm, quyết liệt cùng nhiều giải pháp, biện pháp linh hoạt, thành phố Hà Nội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh đạt được nhiều kết quả tích cực: Kinh tế phục hồi phát triển nhanh, tăng trưởng đạt 8,89%. Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán đạt 333,249 nghìn tỷ đồng. Các cân đối lớn được bảo đảm. Cùng với việc tập trung các nhiệm vụ phát triển kinh tế, thành phố Hà Nội cũng chú trọng bảo đảm an sinh xã hội với quan điểm chăm lo an sinh xã hội tương xứng và đồng bộ với tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, thời gian qua, công tác an sinh xã hội đạt được nhiều kết quả tích cực.

Trong năm 2022, ngoài những chính sách của Trung ương ban hành, thành phố Hà Nội còn xây dựng nhiều chính sách  đặc thù chăm lo an sinh xã hội với kinh phí trên 1.000 tỷ đồng, như chính sách đặc thù dành cho người có công với cách mạng; chính sách hỗ trợ bảo hiểm xã hội tự nguyện, chính sách hỗ trợ kinh phí hoạt động hằng năm của đại diện các ban liên lạc tù chính trị, mức quà tặng cho các đối tượng nhân dịp tết Nguyên đán, ngày Thương binh - Liệt sĩ 27-7; ngày Quốc khánh 2-9; ngày Quốc tế Thiếu nhi 1-6; tết Trung thu...

Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội còn quan tâm đến công tác lao động, người có công và xã hội,... coi đây là nhiệm vụ quan trọng góp phần bảo đảm an sinh, an dân, an ninh và an toàn. Tất cả các chỉ tiêu, nhiệm vụ về lao động, người có công và xã hội đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra; ổn định thị trường lao động; kịp thời kết nối cung - cầu lao động, việc làm giữa các khu vực, lĩnh vực, cụ thể: Thành phố Hà Nội đã tạo việc làm mới cho 203.027/160.000 người lao động đạt 126,9% kế hoạch, tăng 13% so với năm 2021; tỷ lệ thất nghiệp thành phố đạt 2,23%, giảm 0,79 điểm phần trăm so với năm 2021; tuyển sinh và đào tạo nghề cho 251.500/224.500 lượt người, đạt 112% kế hoạch; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 72,23%, tăng 1,13 điểm % so với tỷ lệ đạt được năm 2021.

Về công tác chăm lo các đối tượng chính sách người có công với cách mạng, thành phố Hà Nội đã lan tỏa được nhiều giá trị nhân văn cao cả, các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp cùng chung tay giúp sức thực hiện Quỹ Đền ơn đáp nghĩa, đạt trên 200% kế hoạch; 100% người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống người dân nơi cư trú. Thực hiện kế hoạch giảm nghèo, thành phố Hà Nội đạt 218,8% kế hoạch, tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 0,1% (0,095%) với 16/30 quận, huyện, thị xã không còn hộ nghèo (theo chuẩn mới 2022 - 2025); 99,9% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được chăm sóc trợ giúp bằng nhiều hình thức khác nhau; 80,7% người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý được tiếp cận các dịch vụ tư vấn, điều trị, cai nghiện. Người cao tuổi và các đối tượng bảo trợ xã hội được quan tâm, chăm lo chu đáo.

Ngày 23-9-2021, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ban hành Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND “Quy định mức chuẩn trợ giúp xã hội và đối tượng bảo trợ xã hội của thành phố Hà Nội”. Theo đó, mức chuẩn trợ giúp xã hội của thành phố Hà Nội là 440.000đ/tháng (mức chuẩn trợ giúp xã hội hiện nay là 360.000 đồng/người), gồm các đối tượng bảo trợ xã hội theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15-3-2021, của Chính phủ “Quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với bảo trợ xã hội”, các đối tượng bảo trợ xã hội của thành phố Hà Nội, các đối tượng bảo trợ xã hội thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng theo chuẩn nghèo, chuẩn cận nghèo của thành phố Hà Nội. Các chính sách trợ giúp xã hội được thiết kế hướng vào mục tiêu bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng theo vòng đời từ độ tuổi ấu thơ đến người cao tuổi nhằm phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục các rủi ro của con người trong suốt cuộc đời, từng bước đáp ứng các nhu cầu cơ bản của đối tượng về thu nhập, nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, hướng nghiệp, dạy nghề, bảo đảm tốt hơn các quyền của đối tượng thụ hưởng chính sách.

Một số kinh nghiệm và giải pháp thực hiện trong thời gian tới

Có thể thấy, chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần bảo đảm an sinh xã hội cho người dân theo cách tiếp cận hệ thống, đồng bộ, toàn diện, bao phủ hết đối tượng, gắn kết chặt chẽ trong mối tương quan với an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản. Đạt được những kết quả trên, thành phố Hà Nội bước đầu rút ra một số kinh nghiệm:

Thứ nhất, thành phố Hà Nội đã lãnh đạo, chỉ đạo tập trung đồng bộ, xuyên suốt, thống nhất và nhất quán từ thành phố tới địa phương; lấy người dân, là chủ thể trong công tác điều hành phát triển kinh tế - xã hội; coi trọng người dân và chăm lo cho người dân trong mọi hoàn cảnh.

Thứ hai, sự vào cuộc đồng bộ và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhất là hệ thống chính trị tại cơ sở trong việc bảo đảm an sinh xã hội, an toàn trật tự xã hội; sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành, các lực lượng, các đoàn thể, tổ chức xã hội trong việc thực hiện các chính sách lao động, việc làm, ưu đãi người có công, giảm nghèo, bảo trợ xã hội.

Thứ ba, huy động sức mạnh đại đoàn kết; lan tỏa, tạo sự cộng hưởng tham gia tích cực của cộng đồng doanh nghiệp và đông đảo các tầng lớp nhân dân trong việc đóng góp công sức, của cải vật chất và tinh thần chăm lo đời sống nhân dân. Phát huy sự phấn đấu, tự vươn lên của các đối tượng chính sách, đặc biệt là cổ vũ người nghèo phát huy nội lực, tích cực vươn lên và mong muốn thoát nghèo bền vững.

Thứ tư, làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận xã hội trong việc thực hiện đầy đủ và kịp thời các cơ chế chính sách an sinh; sự tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; không để các phần tử xấu gây kích động làm chia rẽ nội bộ.

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, thường xuyên kiểm tra, rút kinh nghiệm trong việc thực hiện từng chương trình, kế hoạch cụ thể; đi đôi với đôn đốc và hướng dẫn tổ chức thực hiện. Công tác khen thưởng, kỷ luật kịp thời, nghiêm minh; ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số hiệu quả.

Trong thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực dự báo tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường cả về chính trị, an ninh, kinh tế và xã hội; các rủi ro về đầu tư tài chính, lạm phát gia tăng. Trong khi đó, dịch bệnh, biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến bất thường… Để hoàn thiện các chính sách trợ giúp xã hội, tiến tới bảo đảm an sinh xã hội toàn dân trong mọi hoàn cảnh, thành phố Hà Nội cần tập trung triển khai các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp công tác lao động, người có công và xã hội, nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện tốt chính sách đối với người có công, người nghèo và các đối tượng chính sách khác; đồng thời tạo việc làm bền vững cho người lao động, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội theo Nghị quyết số 06/NQ-CP, ngày 10-1-2023, của Chính phủ “Về phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập nhằm phục hồi nhanh kinh tế - xã hội”.

Hai là, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ sở trợ giúp xã hội tiếp nhận các đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng cần bảo vệ khẩn cấp vào chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, ngày 15-3-2021 “Quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội”. Dõi việc thực hiện chi trả trợ cấp xã hội qua hệ thống bưu điện; quản lý đối tượng qua hệ thống phần mềm quản lý đối tượng bảo trợ xã hội, nghèo, cận nghèo…

Ba là, huy động nguồn lực từ người dân và cộng đồng xã hội cho công tác trợ giúp xã hội. Đổi mới hình thức hỗ trợ tiền mặt có điều kiện cho nhóm đối tượng yếu thế, chuyển từ phương thức cấp phát trực tiếp cho đơn vị sự nghiệp công sang cấp phát cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ công (hỗ trợ trực tiếp cho các đối tượng chính sách xã hội, các đối tượng nghèo để được tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ sự nghiệp công với chất lượng cao hơn).

Bốn là, hoàn thiện cơ sở dữ liệu đối tượng bảo trợ xã hội, số hóa hồ sơ; bảo đảm hạ tầng hệ thống; tập huấn, chuyển giao công nghệ cho người sử dụng các cấp từ trung ương đến địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá thực hiện chính sách trợ giúp xã hội, bao gồm chính sách trợ cấp xã hội, quản lý các cơ sở trợ giúp xã hội và các chính sách có liên quan./.