TCCSĐT - Văn kiện Đại hội XII của Đảng (tháng 01-2016) xác định phương hướng: Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ nữ.

Việc tổ chức triển khai thực hiện phương hướng nêu trên là nhằm bảo đảm quyền phụ nữ trong đời sống xã hội, từ sức khỏe, giáo dục, đến tham gia chính trị, ổn định kinh tế, và sống trong môi trường không bạo lực,...

Thực tế thì phụ nữ có quyền được hưởng đầy đủ và bình đẳng tất cả các quyền con người, quyền công dân như nam giới. Hiến pháp năm 2013, so với Hiến pháp năm 1992, đã có những sửa đổi, bổ sung, phát triển quan trọng về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền của phụ nữ. Theo đó, mọi người (cả nam và nữ) đều bình đẳng trước pháp luật và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn, hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Đặc biệt, nếu Hiến pháp năm 1992, Điều 63 chỉ quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, thì Hiến pháp năm 2013 quy định “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26). Tức là đã thay đổi quan niệm và cách tiếp cận về bình đẳng giới, từ chỉ bình đẳng với giới nữ sang bình đẳng với cả giới nam và giới nữ. Chủ thể và nội dung quyền bình đẳng về giới, do vậy, được mở rộng và làm sâu sắc hơn. Theo Điều 26, công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội; nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.

Hiện nay, có một số vấn đề về quyền của phụ nữ cần quan tâm như sau: Hôn nhân ở tuổi vị thành niên, nhất là ở vùng núi cao, vùng dân tộc thiểu số, không phải là hiếm. Việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số, vẫn còn hạn chế. Việc chăm sóc sức khỏe sinh sản tiền hôn nhân cũng chưa được coi trọng. Tỷ lệ vị thành niên có thai trong tổng số phụ nữ có thai tăng từ 2,9% năm 2010 lên 3,2% trong những năm gần đây. Phụ nữ tiếp tục gặp nhiều nguy cơ có quan hệ tình dục không an toàn với chồng/bạn tình. Định kiến giới và tư tưởng thích con trai cùng với việc tiếp cận dễ dàng các dịch vụ kỹ thuật chẩn đoán sớm giới tính thai nhi và dịch vụ phá thai là những nguyên nhân cơ bản góp phần làm gia tăng tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Tỷ số chênh lệch giới tính khi sinh hiện nay là 111,9 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái. Tỷ số chênh lệch này có thể tăng rất cao, thậm chí lên tới 115 trẻ em trai trên 100 trẻ em gái trong những năm cuối của thập kỷ này; và sẽ đẩy Việt Nam lên gần vị trí đứng đầu trong bảng mất cân bằng giới tính khi sinh, theo quan sát trên toàn thế giới.

Theo Điều tra Thay đổi dân số của Tổng cục Thống kê năm 2011, lựa chọn giới tính thường cao hơn ở các gia đình có kinh tế khá giả. Bất bình đẳng giới có những nguyên nhân phức tạp trong mỗi xã hội và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Bất bình đẳng giới tác động tiêu cực tới những thành tựu về bình đẳng giới, việc làm, giải quyết các vấn đề xã hội,... đã đạt được từ trước đến nay.

Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, chiếm 48,4% lực lượng lao động. Nhưng, phụ nữ thường phải tham gia các công việc không chính thức và dễ bị tổn thương. Nhiều phụ nữ phải tự tạo việc làm hoặc làm việc trong gia đình mà không được trả công. Phụ nữ làm việc trong các khu vực không chính thức có tiền công thấp hơn, tay nghề thấp hơn và ít cơ hội nâng cao tay nghề và đào tạo.

Trách nhiệm song song của người phụ nữ vừa chăm sóc con cái, làm nội trợ, vừa phải tạo thu nhập cho gia đình, cản trở người phụ nữ tham gia các công việc được trả công, đặc biệt công việc trong khu vực chính thức.

Tình hình đó đã góp phần làm gia tăng bạo lực về giới, bạo lực trong gia đình ở nhiều nơi, nông thôn cũng như thành thị và trong tất cả các nhóm xã hội. Phụ nữ phải đối mặt với sự phân biệt đối xử, có khi trắng trợn trong thị trường lao động và trong việc thụ hưởng quyền lợi kinh tế. Những hình thức bạo lực trực tiếp hướng đến phụ nữ, đã tước đoạt những quyền lợi và đôi khi là cuộc đời của họ. Những công việc nội trợ và công việc có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập trong xã hội, ngày ngày kìm hãm, hầu như không cho phụ nữ được thụ hưởng những quyền lợi của mình.

Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện phương hướng Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền của phụ nữ, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Trước tiên, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới.

Cần chuyển biến quan niệm xã hội về cơ hội bình đẳng cho quyền của nữ giới và nam giới để phát triển, phát huy các khả năng, năng lực của cả hai giới trong đời sống xã hội và trong việc thụ hưởng kết quả phát triển một cách bình đẳng. Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới không có nghĩa là thực hiện sự cào bằng trong việc phân công lao động giữa hai giới. Việc khắc phục sự bất bình đẳng về giới là tôn trọng những khác biệt giới tính trong lao động và quan hệ xã hội, nhưng không triệt tiêu những khác biệt tự nhiên giữa hai giới.

Thứ hai, cần xác định và thực hiện những yêu cầu cụ thể nhằm bảo đảm quyền bình đẳng giới

Đó là: 1/ Phụ nữ và nam giới đều bình đẳng tham gia và quyết định mọi công việc trong gia đình và xã hội; 2/ Nữ giới và nam giới cùng chia sẻ công việc trong gia đình và nuôi dạy con cái; 3/ Nữ giới không cam chịu bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử trong gia đình và xã hội; 4/ Không khoan nhượng với hành vi ngược đãi phụ nữ, đặc biệt là trẻ em gái; 5/ Hạn chế và khắc phục tư tưởng gia trưởng, vì là nguyên nhân chính dẫn đến bạo hành trong gia đình; 6/ Nữ giới có quyền và cơ hội học tập, nâng cao hiểu biết như nam giới; 7/ Cha mẹ khuyến khích và tạo điều kiện cho trẻ em gái đến trường và tiếp tục theo học lên cao; 8/ Hôn nhân không tự nguyện và tảo hôn là một nguyên nhân dẫn đến tan vỡ hạnh phúc gia đình; 9/ Lựa chọn hành vi tình dục an toàn là quyền và trách nhiệm của nữ giới và nam giới để phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục; 10/ Nói KHÔNG với tình dục trước 18 tuổi.

Thứ ba, thực hiện các biện pháp thúc đẩy, bảo đảm quyền của phụ nữ trong đời sống xã hội

- Tuyên truyền để nâng cao nhận thức và khuyến khích các hộ gia đình đầu tư vào trẻ em gái và phụ nữ, tăng cường các dịch vụ xã hội thuận lợi và khuyến khích nam giới và trẻ em trai tham gia phòng chống bạo lực trên cơ sở bình đẳng giới.

- Tạo quyền và nâng cao vị thế xã hội cho phụ nữ, để hỗ trợ sự tham gia của phụ nữ, bằng cách giải quyết những bất bình đẳng đối với phụ nữ, như quyền được cấp giấy sử dụng đất, cơ hội được đào tạo, bảo trợ xã hội,....; có thể ấn định tỷ lệ tham gia các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp của nữ giới và nam giới.

- Quy định cụ thể về trách nhiệm bảo đảm quyền bình đẳng giới cho các cấp chính quyền.

- Giám sát, phản biện xã hội để bảo đảm tính hiệu lực thực tế trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về quyền bình đẳng giới. Để bảo vệ quyền của phụ nữ có hiệu quả hơn, trong điều kiện nước ta hiện nay, cần coi trọng xây dựng mạng lưới giám sát thực thi pháp luật và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội bảo vệ quyền của họ.

Ví dụ như giám sát hành chính: Các ngành quản lý chức năng như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Giáo dục và Đào tạo,... đã phát huy tác dụng góp phần hạn chế những rào cản trong việc bảo đảm quyền bình đẳng giới; triển khai nhiều biện pháp giám sát, kiểm tra việc thực hiện chính sách, chương trình hỗ trợ phụ nữ để kịp thời phát hiện và xử lý những sai phạm của cán bộ, công chức, viên chức, tổ chức, cá nhân vi phạm quyền bình đẳng giới.

Hoặc mạng lưới giám sát bằng dư luận: Các cơ quan truyền thông, báo chí tích cực đấu tranh không khoan nhượng với những hiện tượng, việc làm tiêu cực gây ảnh hưởng xấu đến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền bình đẳng giới. Mặc dù sự giám sát dư luận không mang tính pháp lý nhưng tạo ra sức ép dư luận xã hội rất lớn lên các biểu hiện, việc làm vi phạm quyền bình đẳng giới. Ngoài ra, các tổ chức xã hội như hội phụ nữ, hội cựu chiến binh,... cần hoạt động tích cực để đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng giới.

Việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế phản biện xã hội nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện trong việc tham gia hoạch định và thực hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền bình đẳng giới. Có nhiều hình thức phản biện: phản biện qua các hội thảo, hội nghị; phản biện qua các phương tiện thông tin đại chúng; phản biện qua tọa đàm; qua tiếp xúc cử tri,... Nội dung phản biện xoay quanh tính hợp lý hay sự bất cập của các chính sách, pháp luật về quyền bình đẳng giới; các chương trình, dự án hỗ trợ cho phụ nữ và trẻ em gái; cách thức, biện pháp tổ chức triển khai, thực hiện các chính sách, pháp luật, chương trình, dự án của các cấp, các ngành trong việc bảo đảm quyền bình đẳng giới. Thông qua hình thức phản biện xã hội, các ý kiến thu thập được sẽ được tiếp thu để đề ra các biện pháp bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các chính sách, pháp luật, chương trình, dự án,... nhằm bảo đảm tốt quyền bình đẳng giới trong thực tế./.