Đào tạo báo chí - truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay

TS Lê Hồng Quang - Phạm Minh Tuấn
Ban Quản lý Đào tạo, Bồi dưỡng, Học viện Báo chí và Tuyên truyền - Văn Phòng Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
10:21, ngày 17-06-2025

TCCS - Lĩnh vực báo chí - truyền thông đang trải qua những biến đổi sâu sắc cả về phương thức sản xuất, phân phối và tiêu thụ nội dung do tác động mạnh mẽ của chuyển đổi số. Sự bùng nổ của công nghệ số, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo (AI) và đa nền tảng không chỉ mở ra cơ hội lớn mà còn đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác đào tạo báo chí - truyền thông. Vì vậy, cần phân tích sâu, đa chiều tác động của chuyển đổi số đến công tác đào tạo báo chí - truyền thông và thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo báo chí - truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.

Tác động chuyển đổi số đến công tác đào tạo báo chí - truyền thông

Chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí - truyền thông là quá trình ứng dụng công nghệ số để thay đổi cách thức sản xuất, phân phối và tiêu thụ nội dung thông tin. Các công nghệ số được tích hợp, như dữ liệu lớn (Big Data), AI, nền tảng đa phương tiện (multimedia), blockchain, metaverse… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng trải nghiệm của độc giả. Chuyển đổi số không đơn thuần là số hóa dữ liệu ngành, mà còn là quá trình thay đổi toàn diện mô hình hoạt động, phương thức tổ chức sản xuất, quản trị và cung cấp dịch vụ, dựa trên nền tảng công nghệ số(1)

Các yếu tố chính của chuyển đổi số báo chí - truyền thông, bao gồm: (i) Số hóa nội dung - tạo ra các phiên bản kỹ thuật số của các nội dung báo chí truyền thống, như báo in, video, âm thanh, hình ảnh, để có thể phân phối qua mạng internet và các thiết bị số; (ii) Tăng cường khả năng tương tác - sử dụng các công cụ kỹ thuật số để tương tác trực tiếp với công chúng, qua đó thu thập phản hồi, phân tích dữ liệu và cá nhân hóa nội dung theo nhu cầu người dùng; (iii) Tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối - áp dụng công nghệ vào quy trình làm việc, từ việc thu thập thông tin, biên tập, xuất bản, cho đến phân phối nội dung qua các nền tảng số như website, mạng xã hội và ứng dụng di động3.

Chuyển đổi số cho phép báo chí - truyền thông mở rộng phạm vi tiếp cận công chúng. Chỉ cần chiếc điện thoại thông minh có kết nối internet, công chúng có thể theo dõi tin tức mới nhất, mọi lúc, mọi nơi. Trong môi trường số, công chúng không còn là người tiếp nhận thông tin thụ động mà trở thành đối tác tương tác. Họ có thể bình luận, chia sẻ ý kiến, đánh giá và thậm chí đóng góp nội dung ngay trên các nền tảng kỹ thuật số. Nhờ đó, luồng thông tin trở nên đa chiều, thúc đẩy sự gắn kết giữa tòa soạn và công chúng, đồng thời mở ra cơ hội xây dựng cộng đồng người theo dõi.

Chuyển đổi số giúp tối ưu hóa năng suất hoạt động, làm việc hiệu quả hơn bằng cách tự động hóa quy trình sản xuất và phân phối nội dung; giảm thiểu chi phí in ấn. Chuyển đổi số còn giúp các cơ quan báo chí - truyền thông tối đa hóa thu nhập thông qua các mô hình kinh doanh mới như tiếp thị liên kết, quảng cáo trực tuyến, nội dung trả phí hay đăng ký hội viên. Đồng thời, tăng khả năng cạnh tranh với các nền tảng mạng xã hội.

Chuyển đổi số tác động mạnh mẽ đến công tác đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông, bao gồm cả mục tiêu, nội dung, phương pháp và mô hình đào tạo.

Thứ nhất, chuyển đổi số đòi hỏi sự bổ sung và điều chỉnh trong mục tiêu đào tạo, nhằm đào tạo thế hệ nhà báo mới vừa giỏi chuyên môn, vừa thành thạo kỹ thuật số. Ngoài các giá trị cốt lõi như đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng nghiên cứu, phỏng vấn, biên tập, nay có sự bổ sung các mục tiêu mới, như đào tạo nhà báo đa năng (viết, quay phim, edit video, phân tích dữ liệu); sự linh hoạt, sáng tạo và bắt kịp công nghệ mới; khả năng bảo mật thông tin và chống lại tin giả.

Thứ hai, chuyển đổi số làm thay đổi nội dung đào tạo, liên tục cập nhật kiến thức mới (báo chí dữ liệu, truyền thông đa phương tiện, AI trong sản xuất tin tức…); tăng cường kỹ năng số (digital storytelling, phân tích dữ liệu, quản trị mạng xã hội…). Một số môn học mới được bổ sung, giảm thời lượng môn báo in, tăng cường thực hành báo điện tử, podcast, TikTok journalism.

Thứ ba, thay đổi phương pháp đào tạo, tăng cường ứng dụng công nghệ (học trực tuyến, mô phỏng, thực tế ảo, thực tế tăng cường VR/AR). Tăng cường các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án (Project-Based Learning); dạy học theo tình huống (Case Study); mô phỏng (Simulation); thực tập tại cơ quan báo chí/truyền thông; mời nhà báo, chuyên gia chia sẻ kinh nghiệm và hướng dẫn thực hành; sử dụng công nghệ số. Tăng cường hợp tác giữa trường đại học và cơ quan báo chí, doanh nghiệp truyền thông. Đào tạo liên ngành nhằm tạo ra sự linh hoạt, khả năng thích ứng cao và đóng góp đa dạng.

Thứ tư, nhiều thách thức đặt ra trong đào tạo báo chí - truyền thông, như chương trình chưa bắt kịp thực tiễn phát triển công nghệ và đa nền tảng; thiếu nguồn lực; cạnh tranh từ các nền tảng phi truyền thống (Facebook TikTok,…); thiếu môi trường thực hành công nghệ cao, thiếu kết nối với doanh nghiệp để cập nhật case study thực tế; mâu thuẫn giữa đòi hỏi tư duy sáng tạo của sinh viên với sự rập khuôn của giáo trình; thách thức về đạo đức và niềm tin báo chí (tin giả…).

Thực trạng đào tạo báo chí - truyền thông hiện nay

Ưu điểm

Một là, các cơ sở đào tạo đã bổ sung, điều chỉnh mục tiêu đào tạo, đa dạng hóa kỹ năng. Tăng cường đào tạo kỹ năng mới để thích ứng với xu hướng công nghệ và thay đổi thói quen tiếp cận thông tin của công chúng, như phân tích dữ liệu, sản xuất nội dung đa nền tảng, thiết kế trình bày website, làm báo hình ảnh và video, sử dụng AI và tự động hóa, quản lý mạng xã hội, bảo mật và chống tin giả, quản trị tòa soạn số. Sinh viên phải đáp ứng yêu cầu cao về tính linh hoạt, sáng tạo và bắt kịp công nghệ mới.

Hai là, chương trình đào tạo đã có sự bổ sung, cập nhật, tích hợp công nghệ số, giảm lý thuyết, tăng thực hành. Các môn học mới đưa vào như báo chí dữ liệu, báo chí di động, báo chí đa nền tảng... Các trường như Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh), Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông… đã có những bước điều chỉnh nội dung đào tạo để phù hợp với nhu cầu thực tiễn.

Ba là, phương pháp đào tạo đã được đổi mới ở mức độ nhất định. Một số trường đã tích hợp công cụ AI, VR/AR, podcasting vào giảng dạy. Sinh viên được tiếp cận với các công cụ như phần mềm chỉnh sửa video (Adobe Premiere), thiết kế đồ họa trực tuyến (Canva), dịch vụ phân tích web (Google Analytics). Các công nghệ số được ứng dụng trong giảng dạy như học trực tuyến kết hợp (Blended Learning) sử dụng nền tảng MOOC, LMS. Tổ chức lớp học ảo qua Zoom, Microsoft Teams, kết hợp với livestream trên mạng xã hội. Mô hình newsroom ảo, phỏng vấn ảo, tác nghiệp tại hiện trường ảo, ứng dụng AR trong thiết kế đồ họa báo chí, infographic tương tác.

Bốn là, chất lượng đội ngũ giảng viên ở một số cơ sở đào tạo được nâng lên. Tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ tăng. Đơn cử, Học viện Báo chí và Tuyên truyền có hàng trăm chuyên gia, nhà khoa học, nhà báo uy tín, nhà chuyên môn thuộc các lĩnh vực lý luận chính trị, báo chí - truyền thông và các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác ở Trung ương và địa phương là thành viên Hội đồng trường, cố vấn chuyên môn, giảng viên kiêm chức, thỉnh giảng. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội có 500 giảng viên, trong đó có 15 giáo sư, 94 phó giáo sư, 168 tiến sĩ khoa học và tiến sĩ, 192 thạc sĩ. Một số trường chú trọng đào tạo, cử giảng viên đi học tập ở nước ngoài (Mỹ, Úc, châu Âu) hoặc liên kết với các trường quốc tế.

Năm là, liên kết giữa trường đại học với cơ quan báo chí, doanh nghiệp trong đào tạo đã được tăng cường. Nhiều mô hình hợp tác hình thành, như doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình, đồng hành trong giảng dạy; xây dựng trung tâm đào tạo và sản xuất truyền thông; hỗ trợ khởi nghiệp và ươm mầm ý tưởng; nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Nhiều sinh viên có cơ hội thực tập, trải nghiệm tại các tòa soạn, tham gia sản xuất nội dung trên nền tảng số (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh hợp tác với Yeah1, VCCorp; đài truyền hình cử phóng viên, biên tập viên tham gia giảng dạy ở các trường).

Sáu là, cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng được đầu tư hiện đại. Các trường top đầu như Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn được đầu tư phòng studio đa phương tiện với hệ thống camera 4K, đèn chiếu sáng chuyên nghiệp. Phòng lab báo chí đa nền tảng với máy tính cấu hình cao, phần mềm biên tập video, thiết kế đồ họa. Hệ thống thiết bị ghi âm, quay phim chuyên nghiệp phục vụ thực hành. Trung tâm dữ liệu và truyền thông số với hệ thống máy chủ hiệu suất cao, hỗ trợ lưu trữ và xử lý dữ liệu lớn. Phòng thực hành phát thanh - truyền hình mô phỏng đài truyền hình thực tế, có teleprompter, hệ thống điều khiển âm thanh, hình ảnh chuyên nghiệp.

Hạn chế

Thứ nhất, chương trình đào tạo tại nhiều trường chậm đổi mới, thiếu tính thực tiễn, chưa phản ánh đúng xu hướng sản xuất tin tức hiện đại, đặc biệt là khả năng tích hợp công nghệ số. Nhiều nội dung vẫn mang tính giới thiệu, thiếu chiều sâu thực hành, chưa kịp thời cập nhật theo tốc độ thay đổi của công nghệ. Thiếu thực hành, sinh viên ít có cơ hội làm dự án thực tế, dẫn đến yếu kỹ năng ứng dụng.

Thứ hai, phương pháp giảng dạy nhìn chung chưa bắt kịp xu hướng, vẫn dạy theo lối truyền thống, nặng về lý thuyết, thiếu trải nghiệm thực tế, ít lồng ghép case study thực tế về các tòa soạn hiện đại. Chưa tích hợp hệ sinh thái số vào chương trình đào tạo. Ít sử dụng  học kết hợp trực tuyến với offline, thiếu tương tác với nền tảng số. Thiếu kết nối với thị trường truyền thông số. Giảng viên ít tham gia vào các dự án truyền thông số thực tế, dẫn đến bài giảng xa rời thực tiễn. Chưa tận dụng mạng lưới chuyên gia trong ngành để cập nhật xu hướng.

Thứ ba, đội ngũ giảng viên thiếu kiến thức nền tảng về công nghệ số do xuất thân từ nền tảng báo chí truyền thống, chưa được đào tạo bài bản về báo chí số, truyền thông đa phương tiện, AI, Big Data; hạn chế trong việc sử dụng các công cụ phân tích dữ liệu, AI trong sản xuất nội dung, hay nền tảng xuất bản đa kênh. Kỹ năng thực hành công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu, khả năng ứng dụng các phần mềm hiện đại còn hạn chế, ít được trải nghiệm thực tế về báo chí dữ liệu, VR/AR, hay sản xuất nội dung cho TikTok, YouTube Shorts; chưa thành thạo các công nghệ Live Streaming, Automation.

Thứ tư, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo báo chí - truyền thông hiện đại. Một số trường lớn được đầu tư tốt, trong khi các trường khác khó tiếp cận công nghệ ca, đặc biệt là về thiết bị, phòng lab truyền thông số, hệ thống phần mềm dựng phim, xử lý dữ liệu… Trong khi đó, ngân sách dành cho đổi mới đào tạo báo chí còn hạn chế, chưa có chính sách riêng hỗ trợ đầu tư cho đào tạo báo chí số.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hạn chế như, tốc độ phát triển công nghệ số quá nhanh, vượt xa đào tạo truyền thống. Ngân sách dành cho đổi mới đào tạo báo chí - truyền thông còn hạn chế. Giảng viên thiếu cơ hội cập nhật kiến thức mới do hạn chế thời gian và nguồn lực. Thiếu đội ngũ chuyên gia từ thực tiễn tham gia giảng dạy. Cơ chế hợp tác giữa nhà trường và cơ quan báo chí, doanh nghiệp truyền thông còn thiếu tính ổn định, chưa có quy trình chung.

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo báo chí - truyền thông thời gian tới

Một là, tiếp tục đổi mới mục tiêu, chương trình đào tạo báo chí - truyền thông theo hướng tích hợp công nghệ số

Xây dựng, hoàn thiện chuẩn đầu ra đào tạo báo chí - truyền thông cả về kiến thức, kỹ năng, thái độ và năng lực thích ứng với môi trường truyền thông đa nền tảng, công nghệ số. Trong đó, nhấn mạnh nền tảng lý thuyết, kiến thức số. Sinh viên phải hiểu sâu về lý thuyết báo chí - truyền thông, pháp luật báo chí, đạo đức nghề nghiệp trong môi trường số; nắm vững xu hướng chuyển đổi số, công nghệ truyền thông mới, mô hình truyền thông đa nền tảng. Có kỹ năng sản xuất nội dung đa nền tảng (viết, biên tập, thiết kế nội dung phù hợp với báo in, web, mạng xã hội), sản xuất podcast, video, infographic, đồ họa động; kỹ năng phân tích dữ liệu (khai thác dữ liệu, phân tích xu hướng truyền thông từ Big Data, đo lường hiệu quả nội dung và tối ưu hóa chiến dịch truyền thông); kỹ năng quản lý truyền thông số (xây dựng chiến lược Digital Marketing, quản trị cộng đồng, ứng phó khủng hoảng truyền thông trên môi trường số).

Tích hợp công nghệ số vào môn học cốt lõi như môn như báo chí dữ liệu, truyền thông đa phương tiện, AI trong truyền thông, Digital Marketing, Blockchain, truyền thông kỹ thuật số, siêu phẩm số, tổ chức toà soạn hội tụ, Digital marketing và PR số, Digital Media và Analytics, AI và tự động hóa trong truyền thông, Content Marketing... Cắt giảm lý thuyết, tăng các nội dung thực hành, dự án thực tế với cơ quan báo chí, doanh nghiệp truyền thông. Các môn học cần được tổ chức thực hành trên các nền tảng thật, gắn với sản phẩm truyền thông cụ thể. Liên kết với các tập đoàn công nghệ (Google, Meta, TikTok, VNG, Viettel) để xây dựng chương trình thực tập cho sinh viên, mời chuyên gia từ doanh nghiệp giảng dạy tại trường.

Thứ hai, tập trung đổi mới phương pháp đào tạo, tăng cường các phương pháp dạy học hiện đại

Tận dụng những ưu điểm của các phương pháp dạy học truyền thống, đồng thời tích cực đổi mới phương pháp, tăng cường các phương pháp dạy học hiện đại, giúp sinh viên không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn phát triển kỹ năng thực hành, thích nghi với môi trường truyền thông đa phương tiện hiện đại. 

Các phương pháp dạy học hiện đại cần được nghiên cứu áp dụng như: Học tập dựa trên dự án (Project-based learning) giúp sinh viên áp dụng lý thuyết vào thực tế, phát triển kỹ năng làm việc nhóm và giải quyết vấn đề (chẳng hạn, yêu cầu sinh viên thực hiện một phóng sự, sản xuất podcast hoặc thiết kế chiến dịch truyền thông). Học tập qua tình huống (Case-Based Learning) giúp sinh viên rèn luyện khả năng phân tích, đánh giá các tình huống báo chí - truyền thông thực tế (yêu cầu sinh viên phân tích các case study về khủng hoảng truyền thông, đạo đức báo chí hoặc chiến dịch PR thành công).

Phương pháp đóng vai (Role-Playing) - sinh viên có thể đóng vai phóng viên phỏng vấn nhân vật, biên tập viên đưa ra quyết định về nội dung bài báo, nhằm phát triển kỹ năng giao tiếp, phỏng vấn và xử lý tình huống. Học tập dựa trên vấn đề nhằm rèn luyện kỹ năng nghiên cứu và giải quyết các vấn đề phức tạp trong truyền thông (đưa ra một tình huống giả định như xử lý tin giả và yêu cầu sinh viên đề xuất giải pháp). Học tập qua trò chơi nhằm tăng hứng thú học tập thông qua các thử thách, phần thưởng (chẳng hạn, tổ chức cuộc thi “Săn tin nhanh” hoặc thiết kế game mô phỏng tình huống truyền thông). Mời các chuyên gia, nhà báo, người sáng tạo nội dung (content creator) nổi tiếng giảng dạy hoặc tổ chức workshop.

Đổi mới phương pháp đào tạo báo chí - truyền thông đòi hỏi phải nghiên cứu tích hợp công nghệ số vào từng phương pháp dạy học cụ thể, nhằm cập nhật xu hướng truyền thông số, đào tạo kỹ năng sản xuất nội dung đa phương tiện. Sử dụng nền tảng số thông qua áp dụng các công cụ như LMS, MOOCs hoặc các khóa học trực tuyến để đào tạo từ xa. Thực hành trên phần mềm chuyên dụng, sử dụng các công cụ như Adobe Premiere, Canva, Google Analytics, AI tools, ChatGPT để nâng cao kỹ năng sản xuất nội dung số. Mô phỏng môi trường số để sinh viên thực hành trong môi trường báo chí đa nền tảng.

Thứ ba, nâng cao năng lực chuyên môn, sư phạm nói chung, năng lực số nói riêng cho đội ngũ giảng viên

Tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu về các công nghệ mới như AI, Big Data, Multimedia, Data Journalism, Digital Storytelling, VR/AR. Khóa học trực tuyến từ các nền tảng như Coursera, edX, Udemy về kỹ năng số. Hội thảo mang tính thực hành về các công cụ báo chí số (Google Trends, Canva, Adobe Premiere, Tableau, Python cho phân tích dữ liệu). Mời chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn.

Xây dựng môi trường thực hành số cho đội ngũ giảng viên như phòng lab đa phương tiện trang bị công nghệ hiện đại (máy quay 360 độ, phần mềm dựng phim, công cụ phân tích dữ liệu). Ứng dụng AI và automation vào giảng dạy (chatbot hỗ trợ học tập, công cụ kiểm tra tin giả). Xây dựng mô hình tòa soạn ảo để giảng viên và sinh viên cùng sản xuất nội dung số. Hợp tác với các tòa soạn, công ty truyền thông để giảng viên tham gia thực tế, cập nhật xu hướng.

Khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng công nghệ (công bố bài báo, sách chuyên khảo về chuyển đổi số trong báo chí, xây dựng quỹ nghiên cứu về báo chí số, truyền thông đa nền tảng). Cung cấp tài liệu mở về báo chí số, đầu tư phần mềm bản quyền (Adobe Creative Cloud, SPSS, Google Analytics) phục vụ giảng dạy. Xây dựng thư viện số chứa dữ liệu, bài giảng điện tử, kho multimedia. Thay đổi tư duy giảng dạy của đội ngũ giảng viên, khuyến khích tư duy đổi mới trong đào tạo.

Thứ tư, đẩy mạnh hợp tác giữa nhà trường và cơ quan báo chí, doanh nghiệp công nghệ trong đào tạo

Đẩy mạnh hợp tác nhằm gắn lý thuyết với thực hành, tận dụng nguồn lực từ doanh nghiệp (công nghệ, chuyên gia, case study) để bổ sung cho chương trình học; mở rộng mạng lưới kết nối, giúp sinh viên có cơ hội thực tập, tuyển dụng sau tốt nghiệp. Thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng, phối hợp giải quyết các vấn đề cụ thể của ngành (AI trong truyền thông, data journalism, fake news...). Hợp tác không chỉ giúp đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số mà còn tạo ra hệ sinh thái kết nối giữa học thuật và thực tiễn.

Hợp tác với các cơ quan báo chí về công tác thực tập, kiến tập của sinh viên (sinh viên tham gia vào quy trình sản xuất tin bài, sản phẩm truyền thông thực tế). Mời phóng viên, biên tập viên giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm nghiệp vụ, case study thực tiễn hoặc đồng tổ chức hội thảo, trò chuyện (talkshow) để trao đổi về các vấn đề quan trọng, vấn đề nóng hay mới phát sinh của ngành (đạo đức báo chí, xu hướng tiếp cận công chúng...).

Hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ (Google, Meta, Viettel, FPT, CMC, VNG, MobiFone, Bkav, Hitachi Vantara Vietnam...), nhằm đưa công nghệ mới vào giảng dạy, đào tạo về công cụ (AI, data visualization, social media analytics), phần mềm (CMS, Adobe Creative Cloud); hợp tác nghiên cứu (ứng dụng AI trong kiểm chứng thông tin, phát triển nền tảng báo chí số); tài trợ học bổng, lab công nghệ (doanh nghiệp hỗ trợ cơ sở vật chất để sinh viên thực hành).

Trong hợp tác cần chú ý khắc phục sự khác biệt về mục tiêu (nhà trường thường chú trọng đào tạo tổng quát, trong khi doanh nghiệp cần kỹ năng chuyên sâu); các quy định về hợp tác công-tư, bảo mật thông tin trong báo chí và khả năng đầu tư công nghệ hạn chế của trường đại học. Xây dựng khung hợp tác rõ ràng, ký kết thỏa thuận với trách nhiệm cụ thể từng bên. Thành lập ban điều phối chung, gồm đại diện nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan báo chí. Sử dụng một cách linh hoạt hình thức hợp tác, từ đào tạo ngắn hạn đến dự án dài hạn, tránh cứng nhắc.

Thứ năm, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ phục vụ cho công tác  đào tạo

Bảo đảm cơ sở vật chất như phòng học đa phương tiện (máy tính, máy chiếu, hệ thống âm thanh, ánh sáng hiện đại); hệ thống phòng thu (studio) đạt chuẩn, dành cho đào tạo, sản xuất chương trình truyền hình, phát thanh, podcast; phòng lab báo chí có máy tính cấu hình cao, phần mềm biên tập video (Adobe Premiere, Final Cut Pro), thiết kế đồ họa (Photoshop, Illustrator); thư viện số, cung cấp tài liệu, báo chí, dữ liệu truyền thông trực tuyến.

Tăng cường đầu tư về công nghệ hiện đại như: Thiết bị quay phim, chụp ảnh chuyên nghiệp (máy ảnh DSLR, drone, gimbal, microphone chất lượng cao); hệ thống VR/AR phục vụ đào tạo báo chí đa nền tảng và truyền thông số; các phần mềm mô phỏng giúp sinh viên thực hành các tình huống báo chí thực tế (chẳng hạn, mô phỏng phỏng vấn, sản xuất tin tức); hệ thống lưu trữ đám mây nhằm đảm bảo an toàn dữ liệu và chia sẻ tài nguyên học tập.

Ngoài các giải pháp trên, để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực báo chí - truyền thông, cần tăng cường hợp tác với các trường đại học, tổ chức truyền thông quốc tế (Reuters Institute, BBC Media Action) để trao đổi giảng viên. Tham gia dự án quốc tế về báo chí số, từ đó học hỏi phương pháp giảng dạy tiên tiến./.