TCCS - Trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã có sự phát triển trong nhận thức lý luận về văn hóa, trong đó có bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở khoa học để vừa bảo tồn, vừa phát huy giá trị hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể phong phú, độc đáo của nước ta - nguồn lực dồi dào cho phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, qua đó góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
1- Di sản văn hóa là sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, bao gồm di sản văn hóa vật thể (di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia) và di sản văn hóa phi vật thể (tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian). Di sản văn hóa nước ta là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, kết tinh những giá trị văn hóa đặc sắc tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn và trí tuệ Việt Nam. Đây cũng chính là nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, là cơ sở để sáng tạo các giá trị văn hóa mới, góp phần mở rộng, giao lưu văn hóa giữa nước ta với các quốc gia trên thế giới.
Trên cơ sở nhận thức rõ giá trị văn hóa đặc sắc được kết tinh ở hệ thống di sản văn hóa phong phú, đa dạng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, trong sự nghiệp đổi mới đất nước gần 40 năm qua, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi trọng vai trò của các giá trị di sản văn hóa; đồng thời, có những bước phát triển trong nhận thức và lý luận về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, xác định bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc là một nhiệm vụ quan trọng trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước ngoặt đổi mới của đất nước, cùng với việc chú trọng đổi mới về kinh tế, Đảng ta cũng coi trọng việc xây dựng, phát triển văn hóa, hướng tới sự phát triển con người, vì con người. Văn kiện Đại hội VI chỉ rõ một trong những nhiệm vụ của sự nghiệp văn hóa nước nhà: “Nhà nước cùng với nhân dân xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo những di tích lịch sử, văn hóa. Hoàn thành việc sưu tầm vốn văn hóa và nghệ thuật các dân tộc”(1). Dù chưa làm rõ khái niệm “vốn văn hóa”, chưa chỉ ra giá trị nhiều mặt, trong đó có giá trị kinh tế của các di sản văn hóa khi được “vốn hóa”, trở thành “đầu vào” của quá trình sản xuất để tạo ra lợi nhuận, song những quan điểm được chỉ ra tại Đại hội VI cho thấy, tại thời điểm bấy giờ, Đảng ta đã nhận thấy sự cần thiết của việc xác lập nền tảng cho văn hóa và nghệ thuật, giữ gìn và tôn tạo di tích lịch sử, văn hóa; cũng như thấy được tầm quan trọng, sự cần thiết của công tác sưu tầm - công việc đầu tiên và là cơ sở cho hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa.
Kế thừa quan điểm trên, tại các đại hội tiếp theo, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết của hoạt động bảo tồn, giữ gìn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, như tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc (Đại hội VII); kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm mỹ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân tộc; bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của đất nước; khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hóa, nghệ thuật của các dân tộc trên đất nước ta (Đại hội VIII). Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm 1998) có ý nghĩa đột phá trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam, trong đó khẳng định di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa; từ đó đề ra nhiệm vụ bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Các di sản văn hóa đã được cụ thể hóa, đồng thời nhiệm vụ nghiên cứu và giáo dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại cũng được nhấn mạnh trong bảo tồn di sản văn hóa. Đây là định hướng quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tại các kỳ đại hội Đảng tiếp theo, quan điểm coi trọng bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc tiếp tục được kế thừa, phát triển, nhất là được nhấn mạnh trong bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11-2021: Di sản văn hóa là “tài sản vô cùng quý báu do Tổ tiên, Cha ông ta mấy nghìn năm để lại”(2)…; do đó cần “quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc”(3).
Sự nhất quán trong đường lối, chủ trương của Đảng về vai trò, ý nghĩa của công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản trong thời kỳ đổi mới đã được thể chế hóa trong hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước và được triển khai trong thực tiễn. Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai công tác bảo tồn, phát huy di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức của các cấp, ngành và toàn xã hội về công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ngày càng được nâng cao; cùng với đó, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng được củng cố. Nhiều địa phương đã quy hoạch tổng thể, tổ chức kiểm kê, trùng tu, tôn tạo, phục dựng các di sản văn hóa. Theo Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), cả nước đã kiểm kê được hơn 40.000 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh; trong đó có 15 di sản văn hóa phi vật thể đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 7 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức thế giới ghi danh (3 di sản tư liệu thế giới, 4 di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương)(4). Tính đến ngày 18-1-2024, nước ta có 294 hiện vật, nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia(5) và được bảo quản tại hệ thống bảo tàng trên cả nước cùng với hơn 4 triệu hiện vật khác. Đến nay, gần 8.000 lễ hội được lưu truyền gắn với các tín ngưỡng dân gian, phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn dân gian, trò chơi dân gian, các làng nghề thủ công truyền thống ở khắp các vùng, miền trên cả nước. Chính phủ đã ban hành các chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa, từng bước tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước cho công tác bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di sản văn hóa; ban hành Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025, Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030… Việc kiểm kê, tư liệu hóa, phục dựng, lập hồ sơ di sản, thực hiện chế độ đãi ngộ đối với các nghệ nhân dân gian đã tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức của những người làm công tác bảo vệ di sản và nhân dân - những chủ nhân đích thực của di sản văn hóa - từ đó khơi dậy được lòng tự hào, tự tôn dân tộc, sự trân trọng và ý thức trách nhiệm gìn giữ di sản văn hóa, cũng như nhu cầu thụ hưởng văn hóa chính đáng của người dân.
Thứ hai, khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
Các nghị quyết, văn kiện của Đảng trong gần 40 năm đổi mới đã thể hiện bước phát triển trong nhận thức về mối quan hệ của hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình xây dựng đất nước, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở việc các di sản văn hóa chính là nguồn tài nguyên nhân văn, là kho báu quý giá, là chất liệu, là nguồn vốn để xây dựng thành sản phẩm du lịch hấp dẫn, du lịch văn hóa kết hợp phát triển với một số ngành công nghiệp văn hóa, như thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn…, thông qua thu hút doanh nghiệp, nguồn đầu tư đa dạng trong xã hội, đã tạo việc làm, sinh kế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Đồng thời qua đó, các giá trị văn hóa được thấm sâu vào đời sống xã hội, tạo dựng và củng cố nền tảng tinh thần lành mạnh và tiến bộ. Ở chiều ngược lại, thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có hoạt động du lịch tại các địa phương có di sản, các giá trị di sản văn hóa có cơ hội được lan tỏa và quảng bá rộng rãi đến đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Văn hóa ứng xử của mỗi người dân cũng như các sản phẩm thủ công mỹ nghệ chính là những “đại sứ văn hóa” của địa phương, góp phần định vị thương hiệu vùng, miền nói riêng và thương hiệu Việt Nam nói chung. Như vậy, chính nhu cầu tham quan, tìm hiểu, trải nghiệm của khách du lịch đã góp phần thôi thúc chính quyền và người dân biết quý trọng, tự hào, quan tâm chăm lo gìn giữ, bảo tồn, phục dựng và phát huy những giá trị quý báu của các di sản văn hóa.
Văn kiện Đại hội VII của Đảng khẳng định cần: “Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân”(6). Các kỳ đại hội Đảng tiếp theo tiếp tục nhấn mạnh cần gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại nhằm truyền bá sâu rộng các giá trị văn hóa trong công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ và người nước ngoài… Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội”(7). Trong nghị quyết của Bộ Chính trị về một trong những hoạt động kinh tế nhiều tiềm năng, thế mạnh của nước ta là ngành du lịch, Đảng ta cũng khẳng định quan điểm phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên…
Đại hội XIII của Đảng cũng xác định yêu cầu tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(8)… “Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội”(9).
Như vậy, Đảng ta đã thể hiện sự nhất quán và có những bước phát triển trong nhận thức, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội (nhất là hoạt động du lịch văn hóa). Đây là định hướng quan trọng, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương trên cả nước, cũng như tạo động lực cho người dân - chủ thể của văn hóa - ngày càng nâng cao hiểu biết, trách nhiệm đóng góp vào hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.
Thực tiễn cho thấy, điểm nhấn trong sự gắn kết các hoạt động bảo tồn, tôn tạo, giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương trên cả nước là phát triển du lịch ngày càng đạt nhiều kết quả khả quan, góp phần tạo ra sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh, hấp dẫn, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Cùng với đó, các địa phương cũng khuyến khích các điểm đến du lịch dành một phần kinh phí từ lệ phí tham quan cho hoạt động bảo tồn di sản và xúc tiến quảng bá du lịch. Năm 2019, du lịch Việt Nam đón trên 18 triệu lượt khách quốc tế (tăng 16,2%), phục vụ 85 triệu lượt khách nội địa (tăng 6%), tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng hơn 720.000 tỷ đồng (tăng trên 17% so với năm 2018)(10). Năm 2023, ngành du lịch Việt Nam có nhiều nỗ lực phục hồi sau đại dịch COVID-19 và đón được 12,6 triệu lượt khách quốc tế (vượt xa mục tiêu đạt 8 triệu khách), tổng thu từ hoạt động du lịch đạt khoảng 678 nghìn tỷ đồng(11). Việt Nam tiếp tục được vinh danh là “Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới” của Giải thưởng Du lịch thế giới (World Travel Awards). Sự phát triển của du lịch trên cơ sở phát huy giá trị các di sản văn hóa đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới, nâng cao sinh kế của cộng đồng dân cư địa phương, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bền vững, quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, qua đó củng cố “sức mạnh mềm” của văn hóa dân tộc.
Thứ ba, đề ra nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) xác định nhiệm vụ: “Gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển du lịch và hoạt động thông tin đối ngoại”(12); đồng thời chỉ ra các giải pháp: “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc… Xây dựng và thực hiện các chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết các dân tộc thiểu số”(13). Như vậy, phát triển du lịch trên cơ sở khai thác giá trị di sản, từ đó quảng bá và bồi đắp thêm giá trị mới cho di sản; thông qua hoạt động thông tin đối ngoại để quảng bá di sản Việt Nam ra thế giới; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp được nhấn mạnh là một trong những giải pháp để nâng cao hiệu quả việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) có bước phát triển khi đề cập một trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa: “Đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường dịch vụ, sản phẩm văn hóa lành mạnh; đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam”(14). Việc xác định đổi mới thể chế để xây dựng, phát triển thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa là bước phát triển mới, thể hiện sự sáng tạo trong nhận thức của Đảng khi thấy được giá trị nhiều mặt, trong đó có giá trị kinh tế của các di sản văn hóa, coi đó là nguồn lực có thể được “vốn hóa”, trở thành “đầu vào” để tạo nên các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mang tính đặc thù trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để Chính phủ thể chế hóa thông qua việc ban hành “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” vào năm 2016.
Trong bối cảnh mới, Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh nhiệm vụ: “Khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới. Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho thế hệ mai sau”(15). Thực tiễn cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã và đang khai thác dựa trên giá trị các di sản văn hóa để tạo nên sản phẩm hàng hóa và dịch vụ độc đáo, hấp dẫn, ngày càng trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, định vị thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế. Năm 2019, các ngành công nghiệp văn hóa đã đóng góp 3,61% vào GDP cả nước(16) (vượt trước mục tiêu 3% GDP vào năm 2020 mà “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã đề ra). Bên cạnh đó, một số địa phương trên cả nước đã và đang ngày càng chú trọng phát triển kinh tế di sản trên cơ sở phục dựng, bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị kinh tế và giá trị văn hóa của di sản, tiêu biểu như thành phố Hà Nội, các tỉnh Quảng Ninh, Ninh Bình, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế...; qua đó lan tỏa ngày càng sâu rộng các giá trị của di sản trong cuộc sống đương đại.
2- Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả khả quan, hiện nay, thực tiễn quá trình thực hiện đồng thời hay lồng ghép các hoạt động bảo tồn di sản văn hóa và hoạt động phát triển kinh tế - xã hội cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, như việc xử lý quan hệ giữa yêu cầu bảo tồn di sản văn hóa cùng “tính chất nhạy cảm, dễ bị tổn thương” của di sản và thực tế tăng trưởng kinh tế “nóng”, thiếu kiểm soát, khai thác quá mức, thậm chí xâm hại và đe dọa tính bền vững của di sản văn hóa ở một số địa phương; giữa nhu cầu sinh hoạt với yêu cầu bảo tồn di sản văn hóa; giữa sự thiếu hiểu biết, thiếu tri thức lý luận và khoa học chuyên ngành, thiếu trách nhiệm của một số cơ quan, tổ chức, người dân, doanh nghiệp hoặc xu hướng chạy đua “làm mới di sản”, phá vỡ kiến trúc, cảnh quan di sản với yêu cầu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa; giữa lợi ích của người dân và doanh nghiệp trong khai thác, phát huy giá trị di sản văn hóa; giữa quá trình hội nhập và nguy cơ mai một của các di sản văn hóa phi vật thể...
Từ việc tổng kết sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng và thực tiễn triển khai sự gắn kết giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội qua gần 40 năm đổi mới, cần chú ý một số vấn đề sau:
Một là, bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo mở ra nhiều cơ hội cho hoạt động bảo tồn, khai thác, phát huy hiệu quả giá trị của các di sản văn hóa trong phát triển kinh tế di sản cùng các ngành công nghiệp văn hóa. Do vậy, cần tiếp tục quán triệt, thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về gắn kết hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản với phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương trên cả nước. Cần xác định đầu tư vào bảo tồn và phát huy di sản là đầu tư vào quá trình sản xuất các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đặc thù đa giá trị. Mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản và phát triển kinh tế - xã hội có thể nói là một vấn đề mang tính quy luật cần tiếp tục được nghiên cứu, phát triển để cập nhật những quan điểm, xu thế mới; đồng thời cần được nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn ở các cấp, ngành, địa phương và toàn xã hội thông qua nhiều hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, truyền thông xã hội, thông tin cơ sở, các hoạt động giáo dục cùng các sinh hoạt văn hóa khác.
Song, sự biến đổi khí hậu với những diễn biến khó lường, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, xu thế chuyển đổi số cùng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống khác đã và đang đặt ra không ít thách thức đối với hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn này đòi hỏi cần có cách thức quản trị di sản một cách bền vững, trong đó bao hàm nội dung bảo đảm hài hòa hơn mối quan hệ giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận để vận dụng linh hoạt, sáng tạo hơn các quan điểm, đường lối của Đảng về sự gắn kết giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh mới, để di sản không chỉ là tài sản, là tiềm năng, mà còn là nguồn lực quý giá, “đặc hữu” và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nội dung này cần tiếp tục được kế thừa trong Văn kiện Đại hội XIV của Đảng sắp tới.
Hai là, trong quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch cũng như đổi mới thể chế, hoàn thiện cơ chế, chính sách là quan trọng, trong đó cần bảo đảm sự đồng bộ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc. Tăng cường phối hợp để tạo sự thống nhất, đồng bộ, liên ngành trong việc xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch phát triển bền vững gắn với các biện pháp phù hợp để bảo vệ và khai thác có hiệu quả kho tàng di sản văn hóa trên cả nước. Chủ động phân cấp quản lý di sản văn hóa cho chính quyền và cộng đồng cư dân phù hợp với thực tiễn địa phương có di sản. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách kết hợp đối tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa cũng như lĩnh vực di sản nói riêng để thu hút nguồn lực xã hội tham gia đầu tư bảo tồn, phát huy giá trị di sản gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục hồi, phát triển nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu để xây dựng thành các sản phẩm du lịch đặc sắc. Đổi mới chế độ đãi ngộ, tôn vinh nghệ nhân; tạo điều kiện cho nghệ nhân tham gia truyền dạy, quảng bá di sản văn hóa trong cộng đồng.
Ba là, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư trong quá trình bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao hiểu biết của các chủ thể di sản văn hóa về vai trò của ứng xử văn hóa, đạo đức kinh doanh, lòng tự hào dân tộc trong hoạt động khai thác di sản, kinh doanh du lịch và cung cấp các dịch vụ liên quan, trong việc quảng bá, giới thiệu về di sản văn hóa với du khách. Khuyến khích cộng đồng địa phương chủ động cùng tham gia quản lý di sản; xây dựng cơ chế phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch văn hóa. Theo đó các bên tham gia quản lý và khai thác đều phải chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm theo mức độ liên đới (trách nhiệm quản lý; trách nhiệm bảo tồn; trách nhiệm sửa chữa, tu bổ; trách nhiệm xây dựng các sản phẩm du lịch trên cơ sở tôn trọng giá trị di sản; trách nhiệm tuyên truyền, quảng bá; trách nhiệm sử dụng các dịch vụ đi kèm...). Người dân ở địa phương là chủ nhân của các điểm du lịch cần được khuyến khích tự nguyện tham gia hoạt động du lịch di sản một cách sáng tạo và được bảo đảm quyền tiếp cận, hưởng lợi và trách nhiệm đối với di sản văn hóa. Lợi nhuận của du lịch cần phải được phân bổ công bằng, đóng góp cho việc xóa đói, giảm nghèo ở địa phương, cân bằng giữa phát triển kinh tế truyền thống với phát triển du lịch. Có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào du lịch di sản và xác định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc bảo vệ, tôn tạo phát triển tài nguyên du lịch nói chung, các di sản văn hóa nói riêng. Phát huy vai trò tư vấn của các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu về văn hóa, di sản… trong xây dựng các mô hình du lịch di sản hoạt động hiệu quả và bền vững. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc định hướng, đề xuất các cơ chế, chính sách đặc thù cho các điểm du lịch di sản, đồng thời giữ vai trò điều hòa lợi ích giữa người dân và doanh nghiệp.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là những ngành có thế mạnh, như du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn… trên cơ sở khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch văn hóa và các ngành công nghiệp văn hóa khác. Cân nhắc việc triển khai hoạt động du lịch tại một số di sản văn hóa dễ bị tổn thương, biến dạng trong quá trình phát triển. Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch có trách nhiệm gắn với văn hóa cộng đồng, phát huy các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, xây dựng các chương trình nghệ thuật biểu diễn trên cơ sở tôn trọng tính đa dạng văn hóa, tính chỉnh thể nguyên hợp của di sản văn hóa phi vật thể, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản; kiểm soát và cân bằng nhịp sống của hệ sinh thái tại di sản; xử lý nghiêm, triệt để những vi phạm đối với di sản văn hóa...
Năm là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là ngành du lịch văn hóa, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức về du lịch văn hóa, du lịch di sản. Đổi mới và tăng cường công tác đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên, đội ngũ làm du lịch và văn hóa có kiến thức sâu rộng về di sản văn hóa, có kỹ năng nghiệp vụ du lịch chuyên nghiệp, hiện đại, có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ trong phát triển các sản phẩm du lịch hiện đại, đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, khai thác, bảo tồn bền vững các giá trị di sản văn hóa; qua đó, vừa bảo đảm sự an toàn cho di sản, vừa nâng tầm và lan tỏa giá trị di sản trong cuộc sống đương đại, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay./.
--------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 92
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12-2021, tr. 13
(3) Xem: Nguyễn Phú Trọng: “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tlđd, tr. 13
(4) Xem: Đỗ Văn Trụ: “Vai trò của Di sản văn hóa trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 28-11-2022
(5) Xem: Văn Toản: “Lan tỏa những giá trị đặc sắc, tiêu biểu của các Bảo vật quốc gia”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 23-7-2024
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 73
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 127
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 39
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 145
(10) Xem: Đỗ Quyên: “Du lịch Việt Nam đón 18 triệu khách quốc tế”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 24-12-2019
(11) Xem: HB: “Năm 2023, du lịch Việt Nam tăng tốc, đón 12,6 triệu lượt khách quốc tế”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 29-12-2023
(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 225
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 225
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 130
(15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 145 - 146
(16) Xem: Lê Quý Đức: “Phát triển doanh nghiệp văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 15-10-2023
Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, con người Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững  (10/10/2024)
Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa cho người dân tỉnh Ninh Bình  (26/09/2024)
Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh trong thời kỳ mới  (25/09/2024)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển