Phát triển đô thị di sản ở Ninh Bình: Thực tiễn và định hướng
TCCS - Phát triển đô thị di sản là xu thế tất yếu trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khi giá trị văn hóa - lịch sử ngày càng khẳng định vai trò là nguồn lực nội sinh quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với hệ thống di sản đặc sắc, như Quần thể danh thắng Tràng An, Cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình đang từng bước hình thành mô hình đô thị di sản đặc trưng, hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Nhận diện đúng thực tiễn, thuận lợi, thách thức và xác định định hướng phù hợp sẽ góp phần khẳng định vị thế của tỉnh Ninh Bình trong mạng lưới đô thị di sản quốc gia.
Thực tiễn phát triển đô thị di sản ở tỉnh Ninh Bình
Trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tỉnh Ninh Bình là một trong những địa phương có điều kiện thuận lợi để hình thành mô hình đô thị di sản. Vùng đất này hội tụ giá trị lịch sử, văn hóa và cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, lưu giữ dấu ấn kinh đô Hoa Lư xưa - trung tâm chính trị, văn hóa đầu tiên của nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam. Với vị trí chiến lược là “cửa ngõ phía Nam đồng bằng sông Hồng”, tỉnh Ninh Bình có lợi thế kết nối liên vùng, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế, du lịch, văn hóa gắn với bảo tồn di sản.
Những năm gần đây, tỉnh Ninh Bình đã chủ động định hướng phát triển đô thị theo hướng hài hòa giữa bảo tồn di sản và hiện đại hóa. Năm 2013, việc Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới đã tạo nền tảng quan trọng để tỉnh Ninh Bình xây dựng mô hình đô thị di sản, trong đó yếu tố văn hóa, cảnh quan, lịch sử trở thành trục định hướng phát triển không gian đô thị.
Về công tác quy hoạch không gian, tỉnh Ninh Bình đã triển khai nhiều đề án phát triển đô thị gắn với khu vực di sản. Thành phố Ninh Bình được xác định là trung tâm hành chính, văn hóa - du lịch, đồng thời là đầu mối kết nối với các đô thị vệ tinh, như Tam Điệp, Hoa Lư, Gia Viễn và Yên Mô. Hướng phát triển đô thị được tổ chức theo cấu trúc mở, bảo đảm khoảng cách hợp lý với khu vực di sản, hạn chế tối đa sự xâm lấn vào khu vực bảo tồn trung tâm. Đặc biệt, khu vực Cố đô Hoa Lư và Quần thể danh thắng Tràng An được quy hoạch với mục tiêu bảo tồn nguyên vẹn cảnh quan tự nhiên, đồng thời phát triển không gian dịch vụ - du lịch bền vững ở khu vực xung quanh di sản, tạo sự cân bằng giữa bảo tồn di sản và phát triển kinh tế.
Về phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Ninh Bình xác định du lịch di sản là ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò động lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - du lịch. Tỉnh Ninh Bình tập trung đầu tư hạ tầng giao thông, cơ sở dịch vụ và các công trình văn hóa phục vụ phát triển du lịch; đồng thời, khai thác hiệu quả các khu, điểm du lịch trọng điểm như Tràng An, Bái Đính, Tam Cốc - Bích Động, qua đó thúc đẩy tăng trưởng và tăng cường liên kết vùng. Cùng với đó, tỉnh chú trọng phát triển du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái gắn với trải nghiệm văn hóa địa phương, qua đó tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân trong khu vực di sản. Thương hiệu “Ninh Bình - điểm đến của di sản và thiên nhiên” ngày càng được khẳng định, góp phần đưa tỉnh Ninh Bình trở thành trung tâm du lịch nổi bật của khu vực Bắc Bộ.
Về quản lý đô thị và di sản, tỉnh Ninh Bình từng bước hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên ngành trong quy hoạch, xây dựng và bảo tồn. Các quy định về quản lý khu vực di sản được tích hợp trong quy hoạch đô thị, bảo đảm tính thống nhất về không gian, cảnh quan và kiến trúc. Công tác kiểm soát phát triển được tăng cường, nhất là tại khu vực tiếp giáp khu vực bảo tồn trung tâm nhằm hạn chế nguy cơ xâm lấn và biến đổi cảnh quan di sản. Tỉnh cũng ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về bảo tồn giá trị văn hóa, quản lý môi trường và gìn giữ bản sắc kiến trúc đô thị, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực phát triển đô thị gắn với bảo tồn di sản.
Đặc biệt, người dân tỉnh Ninh Bình ngày càng tham gia tích cực vào quá trình phát triển đô thị di sản. Người dân tại các xã, phường vùng đệm Tràng An, Tam Cốc, Hoa Lư trở thành chủ thể trong hoạt động du lịch và bảo tồn, gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm xã hội. Các mô hình du lịch cộng đồng, homestay sinh thái, làng nghề văn hóa được triển khai hiệu quả, vừa tạo sinh kế ổn định, vừa lan tỏa ý thức gìn giữ di sản trong đời sống xã hội. Công tác tuyên truyền, giáo dục về văn hóa di sản cho thế hệ trẻ được chú trọng, tạo nền tảng xã hội bền vững cho tiến trình xây dựng và phát triển đô thị di sản Ninh Bình.
Thực tiễn phát triển đô thị di sản ở tỉnh Ninh Bình cho thấy, tỉnh Ninh Bình đã lựa chọn hướng đi đúng đắn khi kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và phát triển. Tuy nhiên, để mô hình này phát huy hiệu quả lâu dài và có khả năng nhân rộng, cần nhận diện rõ những vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai, qua đó đề xuất giải pháp phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững trong giai đoạn mới.
Những vấn đề đặt ra trong quá trình bảo tồn và phát triển
Quá trình bảo tồn và phát triển đô thị di sản ở tỉnh Ninh Bình đạt nhiều kết quả tích cực, song vẫn cần nhận diện và xử lý kịp thời những thách thức đang đặt ra nhằm bảo đảm tính bền vững của mô hình đô thị di sản và mục tiêu phát triển lâu dài của tỉnh. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạch định chính sách và định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu mới.
Một là, mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo tồn di sản với nhu cầu phát triển đô thị vẫn là vấn đề trung tâm, có tính chất nền tảng. Phát triển đô thị đòi hỏi mở rộng không gian, hạ tầng và dịch vụ, trong khi bảo tồn di sản yêu cầu giữ nguyên hiện trạng, bảo đảm tính xác thực lịch sử và sự toàn vẹn của cảnh quan. Ở một số khu vực ven Quần thể danh thắng Tràng An và Cố đô Hoa Lư, sức ép phát triển hạ tầng và du lịch gia tăng nhanh, tạo nguy cơ phá vỡ sự hài hòa giữa không gian tự nhiên và không gian di sản. Nếu việc xây dựng công trình dịch vụ, khu lưu trú hoặc cơ sở thương mại không được kiểm soát chặt chẽ, cảnh quan có thể bị biến dạng, giá trị thẩm mỹ và văn hóa của di sản bị suy giảm. Đây là thách thức lớn đối với công tác quy hoạch, bởi tốc độ phát triển kinh tế thường vượt trước tiến trình bảo tồn, dẫn đến nguy cơ mất cân bằng giữa hai mục tiêu này.
Hai là, công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị trong vùng di sản còn thiếu tính thống nhất và liên thông. Một số đề án quy hoạch được xây dựng trước khi di sản được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận, nên chưa bảo đảm sự gắn kết giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch bảo tồn. Việc điều chỉnh, cập nhật quy hoạch còn chậm, trong khi tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, dẫn đến nguy cơ mất cân đối giữa phát triển kinh tế và bảo tồn giá trị văn hóa. Bên cạnh đó, sự phối hợp giữa các ngành, nhất là giữa lĩnh vực xây dựng, tài nguyên - môi trường, văn hóa - du lịch, chưa thật sự đồng bộ, gây khó khăn cho công tác kiểm soát phát triển không gian đô thị. Tại một số khu vực ven di sản, tình trạng xây dựng nhà ở và công trình dịch vụ nhỏ lẻ chưa tuân thủ quy hoạch vẫn xảy ra, ảnh hưởng đến cảnh quan và tính hài hòa của không gian di sản.
Ba là, nguồn lực cho bảo tồn và phát triển đô thị di sản chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hiện nay, kinh phí dành cho công tác bảo tồn chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, trong khi nguồn lực xã hội hóa còn hạn chế. Các doanh nghiệp có tiềm năng đầu tư trong lĩnh vực văn hóa - du lịch chưa được khuyến khích bằng cơ chế, chính sách đủ hấp dẫn để tham gia sâu vào quá trình bảo tồn và phát triển. Cơ chế phân bổ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư trong khai thác di sản chưa rõ ràng, khiến sự tham gia của các chủ thể còn mang tính tự phát. Người dân trong vùng di sản tham gia hoạt động du lịch cộng đồng hoặc bảo tồn chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu định hướng chuyên môn, trong khi vai trò của khu vực tư nhân chưa được phát huy tương xứng. Hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý và tính bền vững của mô hình đô thị di sản.
Bốn là, nhận thức và năng lực chuyên môn trong quản lý di sản còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, doanh nghiệp và người dân chưa hiểu rõ về giá trị đa chiều của đô thị di sản, còn xem di sản chủ yếu như nguồn tài nguyên phục vụ du lịch. Cách tiếp cận này dẫn đến tình trạng khai thác quá mức, gây áp lực lên hạ tầng, môi trường và hệ sinh thái di sản. Nhiều điểm du lịch thường xuyên quá tải vào mùa cao điểm, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ và hiệu quả bảo tồn. Đội ngũ cán bộ quy hoạch, quản lý đô thị và hướng dẫn viên du lịch nhìn chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu về bảo tồn gắn với phát triển bền vững. Hạn chế này không chỉ làm giảm hiệu quả quản lý, mà còn tiềm ẩn nguy cơ làm phai nhạt giá trị văn hóa đặc trưng của đô thị di sản tỉnh Ninh Bình.
Năm là, bản sắc kiến trúc và không gian văn hóa đô thị chưa được thể hiện rõ nét trong các khu vực phát triển mới. Việc xây dựng các công trình hiện đại chưa gắn với định hướng kiến trúc đặc trưng, dẫn đến sự pha trộn về hình thái và phong cách, làm giảm giá trị thẩm mỹ của không gian đô thị di sản. Đô thị di sản không chỉ là nơi lưu giữ các công trình cổ, mà còn là tổng thể môi trường sống kết tinh giá trị lịch sử và văn hóa của địa phương. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thiếu các quy định cụ thể về quản lý kiến trúc, vật liệu, chiều cao và màu sắc công trình trong khu vực di sản, khiến bản sắc đô thị chưa được định hình rõ. Hoàn thiện khung quản lý kiến trúc và quy chuẩn xây dựng phù hợp với đặc trưng văn hóa Ninh Bình là yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển.
Sáu là, ứng dụng khoa học - công nghệ trong bảo tồn và phát triển đô thị di sản còn hạn chế. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu số, mô hình đô thị ba chiều và hệ thống giám sát quy hoạch mới ở giai đoạn đầu, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại. Trong khi đó, công nghệ số là công cụ hữu hiệu để quản lý khoa học, theo dõi biến động không gian và hỗ trợ ra quyết định kịp thời. Việc ứng dụng các công nghệ tiên tiến, như trí tuệ nhân tạo (AI), thực tế ảo, các nền tảng số trong quảng bá, giáo dục và tương tác với di sản còn ở mức thử nghiệm, chưa tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong cộng đồng. Đẩy mạnh chuyển đổi số trong bảo tồn và phát triển đô thị di sản là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và phát huy giá trị văn hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Do đó có thể thấy, phát triển đô thị di sản là quá trình phức tạp, đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành, gắn kết giữa khoa học quy hoạch, chính sách quản lý và yếu tố văn hóa - xã hội. Để hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, tỉnh Ninh Bình cần tiếp tục hoàn thiện quy hoạch, nâng cao năng lực quản lý, huy động đa dạng nguồn lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý di sản. Đồng thời, phát huy vai trò của cộng đồng dân cư với tư cách là chủ thể của di sản, gắn lợi ích kinh tế với trách nhiệm bảo tồn và nâng cao nhận thức xã hội về giá trị văn hóa - lịch sử. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển đô thị di sản Ninh Bình theo hướng bền vững, hiện đại và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Những thách thức trên không chỉ phản ánh đặc thù của tỉnh Ninh Bình, mà còn là cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc hoạch định định hướng và chính sách phát triển đô thị di sản ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển sẽ là nhân tố quyết định để các đô thị di sản trở thành không gian sống bền vững, giàu bản sắc văn hóa dân tộc và có sức cạnh tranh trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Định hướng xây dựng mô hình đô thị di sản bền vững
Phát triển đô thị di sản bền vững không chỉ là nhiệm vụ của từng địa phương, mà còn là yêu cầu chiến lược trong tiến trình phát triển đất nước. Đối với Ninh Bình - địa phương sở hữu hệ thống di sản văn hóa và thiên nhiên đặc sắc, việc xây dựng mô hình đô thị di sản bền vững có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa góp phần bảo tồn giá trị lịch sử - văn hóa, vừa khai thác hiệu quả tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn thời gian qua, có thể xác định một số định hướng chủ yếu nhằm bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển trong mô hình đô thị di sản ở tỉnh Ninh Bình.
Thứ nhất, hoàn thiện công tác quy hoạch đô thị gắn với bảo tồn di sản. Quy hoạch đô thị di sản cần được xây dựng trên cơ sở tôn trọng giá trị văn hóa, cảnh quan, kiến trúc và không gian lịch sử, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Công tác lập và điều chỉnh quy hoạch phải tiếp cận theo hướng tích hợp, bảo đảm thống nhất giữa quy hoạch bảo tồn, quy hoạch không gian kiến trúc và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh Ninh Bình cần xác định rõ ranh giới khu vực bảo tồn trung tâm, vùng đệm và khu vực phát triển mới; quản lý chặt chẽ hoạt động xây dựng, tránh xâm lấn không gian di sản; đồng thời, phát triển hạ tầng du lịch, dịch vụ thân thiện với môi trường.
Thứ hai, xây dựng cơ chế quản lý nhà nước đặc thù đối với đô thị di sản. Công tác quản lý đô thị di sản đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, vì vậy cần có mô hình quản lý chuyên trách và cơ chế pháp lý đủ mạnh. Tỉnh Ninh Bình có thể nghiên cứu thành lập Ban Quản lý đô thị di sản trực thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, làm đầu mối điều phối giữa các ngành xây dựng, văn hóa, du lịch, tài nguyên - môi trường và quy hoạch. Cơ quan này cần được giao thẩm quyền rõ ràng trong việc thẩm định dự án, cấp phép xây dựng và kiểm soát không gian kiến trúc. Bên cạnh đó, tỉnh Ninh Bình cần hoàn thiện hệ thống quy định về kiến trúc, bảo vệ cảnh quan, kiểm soát phát triển và bảo đảm tính thống nhất trong quản lý di sản.
Thứ ba, huy động và đa dạng hóa nguồn lực cho bảo tồn và phát triển. Bảo tồn di sản không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, mà cần được thúc đẩy bằng các cơ chế xã hội hóa phù hợp. Tỉnh Ninh Bình cần ban hành chính sách ưu đãi cụ thể về thuế, tín dụng và đất đai để khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực bảo tồn và phát triển đô thị di sản. Đồng thời, xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng, bảo đảm người dân được hưởng lợi trực tiếp từ di sản, qua đó nâng cao trách nhiệm xã hội trong việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa địa phương. Đây là giải pháp quan trọng nhằm tạo nguồn lực bền vững cho phát triển đô thị di sản Ninh Bình trong giai đoạn mới.
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong quản lý và quảng bá di sản. Công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), hệ thống thông tin địa lý (GIS) và mô hình đô thị ba chiều (3D) cần được ứng dụng trong công tác quy hoạch, giám sát và bảo tồn. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu số về di sản sẽ giúp kiểm soát biến động cảnh quan, hỗ trợ ra quyết định quy hoạch chính xác. Bên cạnh đó, phát triển các ứng dụng thực tế ảo (VR), thực tế tăng cường (AR) và nền tảng số để quảng bá giá trị di sản, giáo dục cộng đồng, thúc đẩy du lịch thông minh. Đây là hướng đi giúp tỉnh Ninh Bình vừa bảo tồn hiệu quả, vừa tăng cường sức hấp dẫn và lan tỏa của di sản trên phạm vi quốc gia và quốc tế.
Thứ năm, phát triển du lịch bền vững gắn với văn hóa và cộng đồng. Du lịch là động lực kinh tế quan trọng của đô thị di sản, song phải được định hướng theo nguyên tắc bền vững. Tỉnh Ninh Bình cần phát triển mạnh các mô hình du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch văn hóa - tâm linh dựa trên giá trị bản địa. Các sản phẩm du lịch nên gắn với di sản phi vật thể như làng nghề, lễ hội, ẩm thực, âm nhạc dân gian,… nhằm tạo bản sắc riêng và nâng cao trải nghiệm cho du khách. Đồng thời, quản lý chặt chẽ sức chứa của các điểm di sản, tránh tình trạng quá tải, bảo đảm hài hòa giữa khai thác kinh tế và bảo vệ môi trường.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và nhận thức xã hội về bảo tồn di sản. Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định sự thành công của mô hình đô thị di sản bền vững. Do đó, tỉnh Ninh Bình cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quy hoạch, kiến trúc sư, chuyên gia bảo tồn và hướng dẫn viên du lịch có trình độ chuyên môn, am hiểu văn hóa địa phương. Bên cạnh đó, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền về di sản trong trường học, cộng đồng và phương tiện truyền thông đại chúng, giúp người dân hiểu rõ giá trị và vai trò của mình trong việc bảo vệ, phát huy di sản. Khi cộng đồng trở thành chủ thể, công tác bảo tồn sẽ bền vững và hiệu quả hơn.
Nhìn chung, định hướng xây dựng mô hình đô thị di sản bền vững ở tỉnh Ninh Bình cần được đặt trong tầm nhìn dài hạn, bảo đảm sự hài hòa giữa bảo tồn giá trị văn hóa, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Khi di sản được coi là nguồn lực phát triển, đô thị di sản sẽ trở thành không gian sống năng động, giàu bản sắc, góp phần khẳng định vị thế của tỉnh Ninh Bình trong mạng lưới đô thị di sản quốc gia và khu vực./.
Ninh Bình tập trung lãnh đạo triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp hoạt động hiệu lực, hiệu quả  (08/10/2025)
Phát triển kinh tế xanh gắn với bảo đảm môi trường sinh thái: Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình  (06/10/2025)
Phát huy vai trò của chính quyền cấp xã, đáp ứng yêu cầu phát triển tỉnh Ninh Bình trong kỷ nguyên mới  (01/10/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm