Tỉnh Đắk Lắk phát huy vai trò kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội
TCCS - Trong những năm qua, tỉnh Đắk Lắk đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân. Vị trí, vai trò, đóng góp của kinh tế tư nhân ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân; tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, còn không ít khó khăn, hạn chế, cần những giải pháp mang tính đột phá trong thời gian tới.
Những kết quả nổi bật trong phát triển kinh tế tư nhân
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở vị trí trung tâm vùng Tây Nguyên, nơi giao nhau giữa quốc lộ 14 với quốc lộ 26 và quốc lộ 27; diện tích tự nhiên là 13.030,49km2, dân số gần 1,9 triệu người với 49 dân tộc cùng sinh sống. Tỉnh có trên 40% diện tích đất bazan, khí hậu thuận lợi cho sản xuất các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao, như cà phê, cao su, hồ tiêu, bơ, sầu riêng, cây dược liệu,... Tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 là 8,5%/năm, các ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế; quy mô lực lượng lao động đạt 1,1 triệu người (năm 2020), dân số trẻ và tỷ lệ dân số tham gia vào lực lượng lao động tương đối cao, có điều kiện thuận lợi về nguồn lực cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Năm 2021, GRDP của tỉnh đạt 52.481 tỷ đồng(1) (tăng 5,1% so với năm 2020), cơ cấu các ngành kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
Trong hơn 2 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thiên tai, lũ lụt, hạn hán gây hại cho cây trồng, dịch bệnh gia súc diễn ra trên diện rộng,... nhưng kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk vẫn đạt được các kết quả quan trọng, đặc biệt trong phát triển kinh tế tư nhân, cụ thể:
Về triển khai thực hiện các nghị quyết, cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân
Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 3-6-2017, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, “Về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; Nghị quyết số 98/NQ-CP, ngày 3-10-2017, của Chính phủ, về ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, Tỉnh ủy Đắk Lắk ban hành Chương trình số 17-CTr/TU, ngày 4-10-2017, về thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW; Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh ban hành Kế hoạch số 10611/KH-UBND, ngày 29-12-2017, xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh, hiệu quả, bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đưa kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, phấn đấu đến năm 2020 có khoảng 10.000 doanh nghiệp, đến năm 2025 khoảng 15.000 doanh nghiệp; tăng tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GRDP từ 55% năm 2020 đến khoảng 60% năm 2025. Tỉnh Đắk Lắk cũng triển khai thực hiện đầy đủ các chính sách của Nhà nước liên quan đến hỗ trợ, phát triển thành phần kinh tế tư nhân nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nói riêng(2). Ngoài chính sách chung của Trung ương, UBND tỉnh trình Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh ban hành các nghị quyết và quyết định(3) nhằm kịp thời hỗ trợ các doanh nghiệp; thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tỉnh Đắk Lắk để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, với vốn điều lệ 100 tỷ đồng; vận động các nhà đầu tư tư nhân thành lập Quỹ Đầu tư khởi nghiệp sáng tạo tỉnh Đắk Lắk, với số vốn góp ban đầu là 1,9 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, tỉnh Đắk Lắk kịp thời thực hiện các chỉ đạo nhằm hỗ trợ các đối tượng kinh doanh, doanh nghiệp chịu nhiều tác động của dịch bệnh, như: Gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất; tạm dừng các cuộc thanh tra chuyên ngành để doanh nghiệp có thời gian tập trung khắc phục hậu quả dịch bệnh; tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, nhà đầu tư; hỗ trợ hộ kinh doanh, đối tượng sử dụng lao động vay vốn để trả lương; cảnh giác và thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch trên địa bàn; đẩy mạnh cải cách hành chính để hỗ trợ cho doanh nghiệp, nhà đầu tư,... Triển khai thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP, ngày 1-7-2021, của Chính phủ, “Về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”, tính đến hết năm 2021, tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 8.322 người sử dụng lao động (tính cả hộ kinh doanh) với 87.066 người lao động, tổng số tiền gần 88.373 triệu đồng; đã thực hiện chi trả cho 3.371 người sử dụng lao động với 72.202 người lao động, tổng số tiền hỗ trợ khoảng 54.897 triệu đồng. Qua đó, giúp doanh nghiệp, nhà đầu tư giảm bớt khó khăn, từng bước khôi phục lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Về sự phát triển và đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân
Từ khi triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đến nay, tỉnh Đắk Lắk có 4.806 doanh nghiệp tư nhân đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 63.230 tỷ đồng (giai đoạn 2018 - 2021). Lũy kế đến hết năm 2021, tổng số doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn tỉnh là 11.130 (bao gồm 10.208 doanh nghiệp trong tỉnh và 922 doanh nghiệp ngoài tỉnh đăng ký hoạt động tại tỉnh theo hình thức thành lập chi nhánh), tăng 1,48 lần về số lượng và 1,7 lần về quy mô vốn/doanh nghiệp so với năm 2017. Hiện Đắk Lắk là tỉnh có số lượng doanh nghiệp đang hoạt động xếp thứ 22 cả nước và thứ hai trong khu vực Tây Nguyên, sau Lâm Đồng. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 47.116 hộ kinh doanh đang hoạt động.
Xét về quy mô, trên địa bàn tỉnh hiện chỉ có khoảng 2% doanh nghiệp lớn, còn lại là các DNNVV và doanh nghiệp siêu nhỏ. Các doanh nghiệp có quy mô lớn có nhiều đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, nổi bật là: Công ty Cổ phần Bia Sài Gòn - Miền Trung, Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển An Thái, Công ty Cổ phần Cà phê Trung Nguyên, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xuân Thiện Đắk Lắk, Công ty Trách nhiệm hữu hạn đầu tư Long Thành,... Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh thu hút trên 329 dự án đầu tư của các nhà đầu tư trong nước, với số vốn đầu tư đăng ký trên 57.000 tỷ đồng(4). Nhiều dự án đi vào hoạt động, đem lại hiệu quả, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách tỉnh, tạo nhiều việc làm cho người lao động tại địa phương, chia sẻ gánh nặng về nguồn lực đầu tư với Nhà nước.
Kinh tế tư nhân có nhiều đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Năm 2020, tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá hiện hành của khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm cả kinh tế cá thể) là 55.928 tỷ đồng, chiếm 66% tổng GRDP toàn tỉnh(5). Các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước (NSNN), góp phần nâng tổng thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh, năm 2020 đạt 8.293,5 tỷ đồng, tăng 12,5% so với năm 2019. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2016 - 2020 đạt 143.448 tỷ đồng, cao hơn giai đoạn trước 2,32 lần; khu vực vốn ngoài nhà nước tăng gấp 2,74 lần giai đoạn trước, chiếm 79% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Trong hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp phát huy được các tiềm năng và lợi thế, chủ động tìm kiếm và mở rộng thị trường, hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và quốc tế, đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động xuất, nhập khẩu. Xuất khẩu các sản phẩm nông sản là thế mạnh của tỉnh Đắk Lắk trong nhiều năm qua, như cà phê, tiêu, cao su, mật ong,... Hằng năm, kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đều đạt trên 1 tỷ USD; riêng trong năm 2021, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,136 tỷ USD. Hàng hóa của tỉnh Đắk Lắk xuất khẩu sang hơn 63 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là đã thâm nhập vào các thị trường lớn có tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm và chất lượng hàng hóa cao, như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp,...
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, một số doanh nghiệp đã chủ động thay đổi mô hình, chiến lược kinh doanh, thích ứng linh hoạt, nhanh chóng có những bước phục hồi và phát triển, duy trì hoạt động xuất khẩu các sản phẩm của doanh nghiệp sang các thị trường quốc tế, như Công ty Cổ phần đầu tư phát triển An Thái, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk,...
Khó khăn, vướng mắc và bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, về hoạt động của các đơn vị kinh tế tư nhân
Trên thực tế, tỉnh Đắk Lắk còn nhiều doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; nguồn vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Quy mô tín dụng gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và cơ chế cho vay theo lãi suất không cố định, thả nổi theo lãi suất thị trường, gây rủi ro rất lớn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng.
Trình độ quản lý của nhiều doanh nghiệp còn yếu, chưa ứng dụng mạnh công nghệ thông tin vào quản lý doanh nghiệp; một số chủ doanh nghiệp và cổ đông khi thành lập hiểu biết chưa đầy đủ về các vấn đề pháp luật có liên quan, dẫn đến quá trình hoạt động có khiếu kiện, tranh chấp; một số doanh nghiệp chưa thực hiện đúng, đầy đủ các quy định, chính sách đối với người lao động. Toàn tỉnh hiện có hơn 10.000 doanh nghiệp hoạt động nhưng chỉ có khoảng 3.000 doanh nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp để tạo sức mạnh về quy mô vốn, kỹ thuật, công nghệ,... còn hạn chế khiến chất lượng sản phẩm do doanh nghiệp tạo ra có giá trị gia tăng thấp, sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế chưa cao. Số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu còn ít. Doanh nghiệp phát triển nhanh nhưng thiếu bền vững, doanh nghiệp mới được thành lập tăng nhưng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, giải thể cũng chiếm tỷ lệ cao. Số lượng doanh nghiệp lớn giữ vai trò dẫn dắt, tạo sức bật cho nền kinh tế chưa nhiều. Hoạt động của doanh nghiệp tập trung nhiều ở lĩnh vực xây dựng, thương mại, dịch vụ, bất động sản, ít đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nhất là công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao.
Thứ hai, trong công tác hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân
Tuy công tác hỗ trợ doanh nghiệp đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng chưa có tính đột phá, định hướng cho cả giai đoạn, chưa tạo được sức bật cho sự phát triển nhanh, bền vững của doanh nghiệp. Cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai các nhiệm vụ hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp còn chưa mạnh mẽ. Kết quả cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh qua các năm vẫn chỉ ở mức trung bình trong bảng xếp hạng của cả nước, chưa thật sự là “bệ phóng” cho sự phát triển doanh nghiệp. Một số chỉ số tác động trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (chỉ số chi phí gia nhập thị trường, tiếp cận đất đai, chi phí thời gian) còn cao so với mặt bằng chung của cả nước.
Thứ ba, vai trò của hiệp hội doanh nghiệp, các hội ngành, nghề dù đã được cải thiện so với các năm trước, từng bước phát huy vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp với chính quyền, song chưa thực sự rõ nét trong việc thể hiện tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp, cũng chưa tham gia, đóng góp nhiều vào nhiệm vụ xây dựng và hoạch định chính sách về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp.
Thứ tư, một số quy định về đầu tư, kinh doanh còn chưa rõ ràng, chồng chéo, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, môi trường,... khiến các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cũng như công tác quản lý nhà nước về đầu tư, doanh nghiệp và các lĩnh vực liên quan trong thời gian qua bị ảnh hưởng.
Từ kết quả bước đầu của việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII và Chương trình số 17-CTr/TU của Tỉnh ủy, về thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, các đơn vị kinh tế tư nhân phải thực sự nỗ lực vận động, cập nhật và nắm vững các quy định hiện hành của Nhà nước để tuân thủ và hoạt động đúng pháp luật trong quá trình sản xuất, kinh doanh; chủ động tìm kiếm đối tác, liên kết để nâng cao sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, phải có sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền trong chỉ đạo, triển khai thực hiện; nâng cao trách nhiệm của các sở, ngành trong việc tổ chức thực hiện và cụ thể hóa các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân; tăng cường kỷ luật đảng, kỷ cương nhà nước trong triển khai thực hiện đường lối, pháp luật, chính sách đối với kinh tế tư nhân.
Ba là, cần xác định rõ công tác cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh là nền tảng quan trọng để khuyến khích sự phát triển, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân. Hoàn thiện môi trường thể chế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển; trong đó, cần chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn cao, thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ doanh nghiệp thực sự chuyên nghiệp và hiệu quả.
Bốn là, tăng cường công tác xây dựng Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp; phát huy vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp đối với nhiệm vụ lãnh đạo đảng viên, người lao động và vận động chủ doanh nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền về vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Năm là, cần chủ động và kịp thời tôn vinh, khen thưởng các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế tư nhân tiêu biểu, hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao, chấp hành tốt quy định của pháp luật và có nhiều đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Giải pháp phát triển bền vững kinh tế tư nhân trong thời gian tới
Nhằm phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững; tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế - xã hội, trong thời gian tới, tỉnh Đắk Lắk tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; rà soát, kiến nghị cắt giảm các điều kiện kinh doanh không cần thiết; tạo môi trường thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển; tập trung rà soát, triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, nhất là về thủ tục hành chính, quy định pháp lý về kinh doanh, các trình tự, thủ tục còn chưa rõ ràng, chồng chéo trong phân cấp trách nhiệm, quyền hạn và cơ chế phối hợp trong các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư, xây dựng, đất đai,...; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch.
Hai là, triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là hỗ trợ DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp, hỗ trợ DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị,...
Ba là, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính, triển khai có hiệu quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại các địa phương; đẩy mạnh công tác chuyển đổi số với tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, cách làm phù hợp, bám sát thực tiễn hoạt động của địa phương để phục vụ người dân và doanh nghiệp, tiếp tục nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho doanh nghiệp, nhất là những dịch vụ có số lượng hồ sơ phát sinh lớn; tập trung chỉ đạo, phát huy hiệu quả hoạt động của Trung tâm Phục vụ hành chính công của tỉnh; thường xuyên rà soát để bãi bỏ những thủ tục hành chính không còn phù hợp, đơn giản hóa hồ sơ, quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết và giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp.
Bốn là, nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp, hội doanh nhân trẻ của tỉnh và các hội ngành, nghề có liên quan trong tham gia đóng góp chính sách hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp, xây dựng các mô hình hoạt động phù hợp, như tọa đàm chính sách, hội nghị chuyên đề,...; đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp xây dựng, thành lập các hội doanh nghiệp, hội nghề nghiệp mới phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp; hỗ trợ các hiệp hội doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý và điều hành, góp phần đưa tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đến với các cấp, các ngành; tăng cường gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi giữa lãnh đạo tỉnh với doanh nghiệp nhằm kịp thời nắm bắt những đề xuất, kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp trên địa bàn.
Năm là, sớm thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo tỉnh Đắk Lắk để hỗ trợ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng phát triển khoa học - công nghệ; tích cực huy động, bố trí các nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ dành cho DNNVV theo quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các chính sách hỗ trợ dành cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn./.
-------------
(1) Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 19.551 tỷ đồng (tăng 3,97%); khu vực công nghiệp - xây dựng đạt hơn 7.999 tỷ đồng (tăng 17,98%); khu vực dịch vụ đạt 22.537 tỷ đồng (tăng 2,44%); thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm đạt 2.393 tỷ đồng (tăng 2%).
(2) Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 57/2018/NĐ-CP, ngày 17-4-2018, của Chính phủ, “Về cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”; Nghị quyết số 02/NQ-CP, Nghị quyết số 19/NQ-CP và Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp,...
(3) Nghị quyết số 05/2020/NQ-HĐND, ngày 8-7-2020, của Hội đồng nhân dân tỉnh, về “Quy định về việc hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn”; Nghị quyết số 04/2020/NQ-HĐND, ngày 8-7-2020, của Hội đồng nhân dân tỉnh, “Về Chương trình hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030”; Nghị quyết số 10/2020/NQ-HĐND, ngày 9-12-2020, của Hội đồng nhân dân tỉnh, “Về một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2021 - 2025”; Quyết định số 01/2016/QĐ-UBND, ngày 6-1-2016, của Ủy ban nhân dân tỉnh, về “Ban hành quy định về việc miễn, giảm tiền thuê đất đối với các dự án xã hội hóa thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể dục - thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh”.
(4) Một số lĩnh vực thu hút đầu tư của tỉnh được nhiều nhà đầu tư lớn quan tâm phát triển là điện gió, điện mặt trời, phát triển đô thị, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp.
(5) Xem: Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk: Niên giám Thống kê tỉnh Đắk Lắk, Nxb. Thống kê, 2020, tr. 114
Hà Nội: Kết hợp nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới  (08/08/2022)
Các giải pháp thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng giai đoạn hậu đại dịch COVID-19  (20/07/2022)
Tỉnh Bình Dương phát huy nguồn lực văn hóa trong xây dựng và phát triển  (19/07/2022)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam