Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai

PGS, TS. Vũ Văn Phúc Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
23:41, ngày 04-08-2014

TCCSĐT - Nhằm góp phần triển khai thực hiện Hiến pháp 2013, Luật Đất đai năm 2013, ngày 01-8-2014, tại Hà Nội, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức Hội thảo khoa học: “Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tạp chí Cộng sản Điện tử trân trọng giới thiệu Báo cáo Đề dẫn Hội thảo của PGS, TS. Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản.

Đất đai là nguồn tài nguyên, tài sản quan trọng của quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện cần cho mọi hoạt động sản xuất và đời sống. Ở nước ta, một nước đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi vẫn còn nhiều người sống nhờ vào nông nghiệp, thì đất đai càng trở thành nguồn lực quan trọng. Muốn phát huy tác dụng của nguồn lực đất đai, ngoài việc bảo vệ quỹ đất của quốc gia, còn phải quản lý đất đai hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng đất sao cho vừa bảo đảm được lợi ích trước mắt, vừa tạo điều kiện sử dụng đất hiệu quả lâu dài, tăng cường bảo vệ môi trường đất đai, bảo đảm điều kiện để phát triển bền vững đất nước. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy nên hoàn thiện chế độ sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai luôn là tâm điểm chú ý của Đảng và Nhà nước ta.

 
 PGS, TS. Vũ Văn Phúc phát biểu đề dẫn Hội thảo. Ảnh: Gia Bảo

Đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (từ năm 1986) đến nay, Đảng và Nhà nước ta từng bước thiết kế chương trình tổng thể đổi mới chế độ sở hữu, quản lý, sử dụng đất đai trên nền tảng địa chính hiện đại, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:

Về chế độ sở hữu đất đai, bắt đầu từ Hiến pháp năm 1980, nhân dân ta đã nhất trí với tuyên bố đất đai thuộc sở hữu toàn dân, giao cho Nhà nước quyền quản lý thống nhất. Từ đó cho đến Hiến pháp 1992 và gần đây là Hiến pháp 2013, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai luôn được khẳng định và ghi nhận trong Hiến pháp. Trong khuôn khổ sở hữu toàn dân về đất đai, Đảng và Nhà nước có thể thực hành linh hoạt chế độ giao tập hợp quyền của chủ sở hữu cho cả người sử dụng lẫn bộ máy công quyền theo cách thức vừa tạo công bằng, ổn định, vừa cho phép phát huy các hình thức tổ chức, quản lý và sử dụng đất đai một cách hiệu quả nhất.

Về chế độ quản lý đất đai, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước đổi mới phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thời kỳ cách mạng. Bước vào thời kỳ đổi mới, chính sách khoán sản phẩm trong nông nghiệp, chính sách giao đất, cho thuê đất và tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa… đã từng bước đưa quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa, thành tài sản của người có quyền sử dụng đất. Chỉ với chủ trương hàng hóa hóa quyền sử dụng đất, lập tức đất đai trở nên có giá trị và mọi người đều tìm cách làm tăng giá trị gia tăng của đất. Đây là bước đổi mới có tính cách mạng trong quá trình tìm phương thức quản lý đất hướng đến hiệu quả.

Luật Đất đai năm 2003 về cơ bản đã thể chế hóa được bản chất sở hữu toàn dân và chế độ quản lý dựa trên sự phân chia quyền của chủ sở hữu giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý đất đai và người sử dụng đất, trong đó người sử dụng đất có khá nhiều quyền (sử dụng, hưởng lợi ích từ việc đầu tư lao động và vốn vào đất, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, cho tặng, thế chấp vay vốn, góp vốn bằng quyền sử dụng đất), cơ quan nhà nước có các quyền còn lại (quy hoạch mục đích sử dụng đất, giao đất, thu hồi đất, thực hiện một số khoản thu từ đất, định giá đất).

Nhìn chung, nhân dân phấn khởi khi được giao nhiều quyền của chủ sở hữu đất vượt quá phạm vi của quyền sử dụng. Đi đôi với chủ trương cho phép người dân chuyển đổi ở phạm vi hẹp mục đích sử dụng đất (ví dụ chuyển đất trồng cây hằng năm sang trồng cây lâu năm hoặc nuôi trồng thủy sản; được tự xây dựng nhà ở theo quy hoạch khu dân cư, được chuyển mục đích sử dụng đất trong khuôn khổ đất phi nông nghiệp…) và đẩy mạnh xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trên đất, thì nguồn lực đất đai của nước ta ngày càng có giá trị tương đối lớn hơn trong tương quan với giá trị các nguồn lực khác. Điều đó cho phép nước ta có vị thế tốt hơn trong sử dụng đất như một nguồn lực trong hợp tác làm ăn với các nhà đầu tư nước ngoài, khai thác được nhiều hơn giá trị gia tăng từ đất phục vụ đời sống nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước,…

Tuy nhiên, cơ chế phân chia quyền giữa người sử dụng đất và cơ quan quản lý nhà nước về đất đai theo Luật Đất đai năm 2003 có những điểm chưa hợp lý, dẫn đến hệ lụy là một số cơ quan nhà nước đã lạm dụng quyền hạn để thu hồi đất của dân làm lợi cho một số nhà đầu tư kinh doanh bất động sản hoặc làm khu công nghiệp nhưng không sử dụng trong nhiều năm. Mức chênh lệch giữa giá đền bù cho dân và giá mà người dân phải mua lại từ chủ đầu tư quá lớn đã là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chây ỳ, chậm giải phóng mặt bằng, khiếu kiện, ngăn cản nhà đầu tư sử dụng đất trong khu đô thị, khu công nghiệp…

Hơn nữa, với đa phần diện tích có thể sử dụng đã được đưa vào sử dụng, nhưng hiệu quả sử dụng đất, nhìn một cách tổng thể trong cả nước, vẫn còn thấp, thể hiện trên các mặt sau: đất nông nghiệp chưa được sử dụng với hiệu quả cao nên người nông dân chưa thể thoát nghèo, ngược lại, đa phần nông dân phải sống trong hoàn cảnh bấp bênh, hết trồng lại chặt, hết lúa, lại tôm… mà vẫn không khá lên được. Mất mùa thì nông dân hứng chịu thua lỗ đã đành, được mùa nông dân cũng thua lỗ vì rớt giá. Đất chuyên dùng, nhất là đất khu công nghiệp và đất đô thị vô cùng khan hiếm và đắt đỏ vẫn còn bị bỏ hoang ở nhiều nơi. Trong khi đó, đất làm đường giao thông, làm công trình hạ tầng trong các khu đô thị lại rất khan hiếm… Ai cũng biết rằng, nếu xây dựng hợp lý các công trình hạ tầng, nhất là giao thông, năng lượng, cấp thoát nước thì có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng các diện tích đất đô thị. Nhưng dường như ở lĩnh vực này cũng không phải suôn sẻ với cơ chế thu hồi và giải phóng mặt bằng ở nước ta dẫn đến tình trạng chi phí xây dựng hạ tầng quá cao với những con đường đắt nhất hành tinh…

 
 Các đồng chí: Vũ Văn Phúc, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản; Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Nguyễn Minh Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì Hội thảo. Ảnh: Gia Bảo

Với mong muốn mãnh liệt giải quyết cơ bản các “điểm nghẽn” trong Luật Đất đai năm 2003 và Hiến pháp 1992, năm 2013 Quốc hội đã thông qua cả Hiến pháp sửa đổi lẫn Luật Đất đai sửa đổi. Ngoài việc khẳng định lại chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Hiến pháp 2013 đã chính thức giao cho Nhà nước quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân, quyền thống nhất quản lý đất đai; giao quyền sử dụng đất cho người dân. Mặc dù quy định người đại diện duy nhất cho chủ sở hữu toàn dân là Nhà nước, Hiến pháp cũng khẳng định Nhà nước phải giao quyền sử dụng đất cho người dân và chỉ có quyền thu hồi quyền sử dụng đó trong những trường hợp thật cần thiết (vì mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng). Với tinh thần đổi mới, khắc phục nhược điểm của Luật Đất đai năm 2003, Luật Đất đai 2013 đã có những điểm mới sau:

Một là, quy định rõ ràng hơn các quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai, trách nhiệm của Nhà nước đối với việc thống nhất quản lý đất đai và nghĩa vụ bảo hộ của Nhà nước đối với người sử dụng đất(1).

Hai là, hoàn thiện các quy định nhằm quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, nguồn lực rất quan trọng phát triển đất nước thông qua việc bổ sung, hoàn thiện các quy định về điều tra, đánh giá đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, tài chính về đất đai để quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, có hiệu quả để phát triển kinh tế, xã hội.

Ba là, tăng cường vận hành các quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ bao cấp trong quản lý, sử dụng đất đai, khắc phục tình trạng “xin - cho” trong sử dụng đất thông qua các quy định: thu hẹp các trường hợp được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc không thu tiền sử dụng đất và cơ bản chuyển sang thuê đất. Quy định nguyên tắc thị trường trong việc xác định giá đất.

Điểm nổi bật của Luật Đất đai 2013 là ghi rõ giá đất do Nhà nước quy định phải phù hợp với giá thị trường. Đây là căn cứ để nước ta hình thành một thị trường bất động sản thống nhất. Nghị định về giá đất của Chính phủ vừa ban hành đã thể hiện nghiêm túc quy định này.

Bốn là, thiết lập sự bình đẳng hơn trong việc tiếp cận đất đai giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài bảo đảm yêu cầu hội nhập và phù hợp với các cam kết của Việt Nam với quốc tế.

Năm là, tăng cường hơn tính công khai, minh bạch và dân chủ trong quản lý, sử dụng đất, góp phần phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong lĩnh vực đất đai.

Sáu là, tiếp tục đổi mới công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư. Quan tâm hơn đến bảo đảm sinh kế cho người có đất bị thu hồi.

Bảy là, quan tâm hơn đến việc bảo đảm quyền sử dụng đất cho nhóm người dễ bị tổn thương như người già, phụ nữ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.

Tám là, nâng cao vai trò giám sát của của các cơ quan nhà nước, của nhân dân; đề cao trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước nhằm xây dựng hệ thống quản lý đất đai minh bạch, hiệu quả.

Như vậy, Luật Đất đai năm 2013 đã dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường, tức xác định rõ quyền của Nhà nước, nhất là quyền với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Ngoài quyền của Nhà nước, các quyền còn lại là của người sử dụng đất. Tuy nhiên, thực thi trong thực tế như thế nào những quy định này là vấn đề cần được tiếp tục thảo luận.

Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội thông qua là sự kiện quan trọng đánh dấu những đổi mới về chính sách đất đai, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luật có hiệu lực từ ngày 01-7-2014. Để các quy định của Luật Đất đai năm 2013 sớm đi vào cuộc sống, các bộ, ban, ngành, đặc biệt Bộ Tài nguyên và Môi trường đã khẩn trương xây dựng các nghị định, thông tư hướng dẫn và tổ chức thực hiện.

Thực tiễn trong gần 30 năm đổi mới đất nước cho thấy, chính sách, pháp luật đất đai đã có nhiều đổi mới và đóng góp tích cực cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực đặc biệt quan trọng này. Hệ thống chính sách, pháp luật đất đai ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc củng cố chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý; từng bước mở rộng quyền cho người sử dụng đất, quyền sử dụng đất trở thành hàng hóa, được giao dịch trên thị trường bất động sản; khuyến khích tích tụ ruộng đất, phát triển kinh tế trang trại; xây dựng nông thôn mới; thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài, làm cho đất đai trở thành nguồn nội lực ngày càng quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,...

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thực tế những năm qua cho thấy trong quản lý và sử dụng đất đai cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong quản lý đất đai, đó là: những vấn đề nổi cộm trong công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất; thanh tra, kiểm tra quản lý, sử dụng đất đai; chính sách đền bù, bảo đảm sinh kế cho những người dân thuộc diện thu hồi đất; thậm chí còn do một số quan chức nhà nước đã lợi dụng quyền lực công phục vụ cho mục tiêu riêng của cá nhân, của gia đình, của nhóm lợi ích, cũng như cơ chế phân chia lợi ích từ đất chưa công bằng giữa các nhóm lợi ích khác nhau, giữa người sử dụng đất và Nhà nước... Trong sử dụng, thì nguồn lực đất đai chưa được khai thác đầy đủ để trở thành nguồn nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể, đối với đất nông nghiệp: Tích tụ ruộng đất quy mô nhỏ, tự phát; Sử dụng đất nông nghiệp của hợp tác xã, trang trại và doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp vừa và nhỏ, quy mô hẹp, phân tán, hiệu quả sử dụng thấp; Thị trường quyền sử dụng đất trong khu vực nông thôn, nông nghiệp chưa phát triển; Thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích khác đang tồn tại nhiều vấn đề nghiêm trọng... Đối với đất phi nông nghiệp: Hiệu quả sử dụng thấp, cơ cấu tổ chức không gian, hệ thống dân cư đô thị mất cân đối; Sử dụng đất đô thị chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đô thị hiện đại; Hệ số sử dụng đất đô thị nói chung còn thấp... Quản lý, sử dụng đất xây dựng công trình giao thông, thủy lợi, điện và đất hành lang an toàn công trình còn hạn chế; Quỹ đất, chỉ số bình quân diện tích các loại đất y tế, giáo dục đào tạo, thể dục thể thao thấp, chưa đáp ứng yêu cầu; Quản lý, sử dụng đất của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, đất các khu công nghiệp... còn hạn chế, hiệu quả sử dụng chưa cao. Đối với đất chưa sử dụng: việc sử dụng đất còn lãng phí, nhiều diện tích đất bị thu hồi để thực hiện các dự án đầu tư nhưng tiến độ đầu tư chậm, còn để hoang phí đất đai,...

Việc thông qua Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai 2013 là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng, Nhà nước ta đối với nguồn tài nguyên quý giá này. Tuy nhiên, để chính sách, pháp luật đất đai thực sự đi vào cuộc sống, giải quyết được những vướng mắc, bức xúc, bất cập liên quan đến đất đai, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai, vấn đề đang đặt ra không chỉ với các ban, bộ, ngành chức năng, mà của cả hệ thống chính trị là sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về đất đai, tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các nghị định, thông tư nhằm cụ thể hoá chính sách, pháp luật về đất đai, bảo đảm phù hợp với Luật Đất đai năm 2013 và điều kiện thực tế của đất nước, đồng thời đề xuất những kiến nghị, giải pháp để tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đất đai có hiệu quả trong thời gian tới.

Với tinh thần đó, để góp phần quán triệt đầy đủ, sâu sắc quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng và sớm đưa Hiến pháp năm 2013, Luật Đất đai năm 2013 vào cuộc sống, đặc biệt là đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện tốt ở các cấp, các ngành và toàn xã hội nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất đai trong thời gian tới, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ban Kinh tế Trung ương và Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp đồng tổ chức Hội thảo khoa học: “Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tại cuộc Hội thảo hôm nay, Ban Tổ chức trân trọng đề nghị các đồng chí đại biểu, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn đi sâu phân tích, làm rõ một số vấn đề sau:

Thứ nhất, hiểu đúng bản chất của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai với việc giao cho Nhà nước quyền đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vậy thì ranh giới thực thi quyền đại diện chủ sở hữu của Nhà nước đến đâu là hợp lý để không lấn át quyền sử dụng của người dân, để từ đó kích thích đủ mức việc sử dụng đất hiệu quả và tạo điều kiện hình thành thị trường bất động sản thống nhất.

Thứ hai, Nhà nước, với tư cách đại diện cho lợi ích quốc gia thể chế hóa quyền giao và thu hồi đất như thế nào để phân chia lợi ích từ đất một cách công bằng, đồng thời tạo điều kiện cho những người sử dụng đất hiệu quả có thể tiếp cận đất đai một cách dễ dàng với chi phí về đất mang tính cạnh tranh với các nước khác.

Thứ ba, trong thể chế hóa sở hữu toàn dân về đất đai, vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có vai trò rất quan trọng. Trong khi đó, thực tiễn quản lý và sử dụng đất đai những năm qua cho thấy quy hoạch sử dụng đất có chất lượng thấp, thường xuyên bị điều chỉnh không nhất quán, kỷ luật tuân thủ quy hoạch chưa nghiêm. Vậy thời gian tới giải quyết vấn đề này như thế nào?

Thứ tư, trong nông nghiệp, không gian cho lực lượng sản xuất phát triển ở quy mô kinh tế hộ đã bắt đầu trở nên hạn hẹp. Vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng phần diện tích đất lớn nhất này, cần tổ chức lại quá trình sản xuất trong nông nghiệp theo mô hình nào? Mô hình nào cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở các nông, lâm trường?

Thứ năm, tổ chức không gian đô thị và sử dụng đất đô thị sao cho có hiệu quả dài hạn, các công trình được quy hoạch và sử dụng vừa thuận tiện cho dân cư, công năng tích hợp, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng một cách hợp lý, thân thiện với môi trường, thuận tiện cho sản xuất và đời sống?

Thứ sáu, tổ chức cuộc sống cho những người thuộc diện thu hồi đất như thế nào để họ không bị quá thiệt thòi khi nhường đất cho xã hội sử dụng với hiệu quả chung cao hơn?

Thứ bảy, các giải pháp nào cho phép nâng cao hiệu quả quản lý cung cấp dịch vụ công về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhất là Ủy ban nhân dân tỉnh và Bộ Tài nguyên - Môi trường sao cho các thông tin, dữ liệu về đất đai như bản đồ, giá đất, đăng ký sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… đến được với người dân một cách thuận tiện, chi phí thấp và giảm tham nhũng, phiền hà?

Thứ tám, Đảng có vai trò như thế nào trong lãnh đạo Nhà nước tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đất đai có hiệu quả trong thời gian tới?

Như thường lệ, diễn đàn thảo luận về sở hữu, quản lý, sử dụng đất đai bao giờ cũng bao gồm quá nhiều những vấn đề bức xúc cả về lý luận và thực tiễn, thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp người khác nhau. Mặc dù chúng ta đã có một bước tiến trong lĩnh vực này thể hiện qua Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai 2013, song những vấn đề cần phải tiếp tục thảo luận vẫn còn không ít. Cuộc Hội thảo lần này có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những về phương diện góp phần vào quá trình thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và Luật Đất đai 2013, mà còn tạo tiền đề phát triển và hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách của Nhà nước ta về đất đai nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực đặc biệt quý giá này của quốc gia, đẩy nhanh quá trình phát triển bền vững đất nước.

Trong quá trình chuẩn bị, Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được trên 45 bài tham luận. Các bài tham luận đã thể hiện không chỉ các ý tưởng khoa học, thực tiễn sâu sắc, mà còn chứa đựng tâm huyết của các nhà quản lý, các nhà khoa học. Ban Tổ chức mong muốn tại Hội thảo hôm nay với tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cao, các đồng chí sẽ có nhiều ý kiến thảo luận sâu sắc, cụ thể, sát thực hơn nữa với tình hình thực tiễn và nội dung của các văn bản pháp lý vừa được ban hành nhằm làm sáng tỏ hơn nữa những nội dung xung quanh lĩnh vực sở hữu, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đai ở nước ta hiện nay./.
------------------------------------------------------------

(1) Theo Luật Đất đai 2013, Nhà nước có các quyền và nghĩa vụ sau:

Quyền của đại diện chủ sở hữu về đất đai:

1. Quyết định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất; 2. Quyết định mục đích sử dụng đất; 3. Quy định hạn mức sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất; 4. Quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất; 5. Quyết định giá đất; 6. Quyết định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất; 7. Quyết định chính sách tài chính về đất đai; và 8. Quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.

Trách nhiệm của Nhà nước đối với thống nhất quản lý đất đai:

1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện văn bản đó; 2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, lập bản đồ hành chính; 3. Khảo sát, đo đạc, lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất; điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá đất; 4. Quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; 5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất; 6. Quản lý việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất; 7. Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; 8. Thống kê, kiểm kê đất đai; 9. Xây dựng hệ thống thông tin đất đai; 10. Quản lý tài chính về đất đai và giá đất; 11. Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; 12. Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; 13. Phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai; 14. Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và sử dụng đất đai; và 15. Quản lý hoạt động dịch vụ về đất đai.