TCCSĐT - Ngày 05-11-2012, tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa Đảng Cộng sản Cu-ba và Đảng Cộng sản Việt Nam. TCCSĐT xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu đề dẫn Hội thảo của đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội thảo.

Kính thưa đồng chí Hô-xê Ra-môn Ba-la-gua Ca-bre-ra (Jose Ramón Balaguer Cabrera), Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Cu-ba, Trưởng đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cu-ba

Thưa các đồng chí trong đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cu-ba và các đồng chí trong đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam

Thưa các đồng chí đại biểu khách quý và các đồng chí tham dự Hội thảo

Trước hết, cho phép tôi được thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam, thay mặt các đồng chí trong Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam và các đồng chí có mặt tại đây nồng nhiệt chào mừng đồng chí Trưởng đoàn và các đồng chí trong Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cu-ba đã đến dự cuộc Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa hai Đảng chúng ta.

Xin trân trọng cảm ơn các đồng chí Cu-ba đã vượt qua nửa vòng trái đất đến Việt Nam, tại Thủ đô Hà Nội, mang đến cho chúng ta tình cảm thân thiết, tình đoàn kết chiến đấu của những người đồng chí, những người bạn, những người anh em vô cùng gần gũi và quý mến. Được gặp gỡ, đón tiếp các đồng chí tại đây, tại cuộc hội thảo quốc tế quan trọng lần đầu tiên này giữa hai Đảng, chúng tôi xin gửi tới các đồng chí và qua các đồng chí, tới nhân dân Cu-ba anh em những tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của chúng tôi với các đồng chí, về tất cả những gì mà Đảng, Chính phủ và nhân dân Cu-ba đã giành cho Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Đảng Cộng sản Việt Nam theo những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về chủ nghĩa yêu nước, về truyền thống lịch sử, truyền thống cách mạng của dân tộc, của Đảng, gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Nhờ đó, mỗi người Việt Nam chúng tôi, thế hệ nối tiếp thế hệ đều cảm nhận sâu sắc tấm lòng và tình cảm của các đồng chí Cu-ba, của nhân dân Cu-ba anh em.

Tình đồng chí thủy chung son sắt trong quan hệ giữa hai Đảng, tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Cu-ba là tài sản tinh thần vô giá mà chúng ta nguyện gìn giữ, phát huy trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.

Chúng tôi mãi mãi ghi nhớ câu nói nổi tiếng của đồng chí Phi-đen Cát-xtô-rô Ru-giơ, vị lãnh tụ vĩ đại và kính mến của nhân dân Cu-ba, người bạn lớn của nhân dân Việt Nam: “Vì Việt Nam, Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Đó là minh chứng sinh động và cảm động về tinh thần quốc tế, là nguồn động viên quý báu đối với nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Chúng tôi khâm phục và tự hào về lòng dũng cảm, ý chí cách mạng kiên cường của các đồng chí, của nhân dân Cu-ba anh em đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách do các thế lực thù địch bao vây, cấm vận gây ra, giữ vững thành quả cách mạng, từng bước xây dựng đất nước theo lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trên hòn đảo tự do ở khu vực Mỹ La-tinh.

Đảng và nhân dân Việt Nam luôn coi thắng lợi của cách mạng Cu-ba như thắng lợi của chính mình, luôn gắn bó thủy chung với nhân dân Cu-ba trong thời kỳ khó khăn đặc biệt trước đây cũng như trong công cuộc cải cách, đổi mới hiện nay.

Chúng tôi tin tưởng sâu sắc rằng, với truyền thống cách mạng vẻ vang, với nhiệt tình và tài năng sáng tạo, với những kinh nghiệm phong phú của mình, nhân dân Cu-ba dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Cu-ba, do đồng chí Ra-un Cát-xtô-rô đứng đầu, nhất định sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa trong quá trình cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cu-ba theo Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Cu-ba.

Thưa các đồng chí!

Cuộc Hội thảo Lý luận lần thứ nhất giữa hai Đảng chúng ta đã xác định chủ đề: “Đảng Cộng sản lãnh đạo quá trình đổi mới tại Việt Nam - cập nhật hóa mô hình phát triển kinh tế - xã hội tại Cu-ba: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Đây là một dịp tốt để các nhà lý luận và hoạt động thực tiễn của hai Đảng chúng ta trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu, cùng nhau thảo luận về những vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn phát triển của mỗi nước, nhất là những vấn đề cơ bản cũng như cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi xin trình bày báo cáo đề dẫn, có tựa đề “Sự lãnh đạo của Đảng trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam”.

1. Đổi mới là một quyết sách chiến lược của Đảng, nhằm đón kịp thời cơ lớn để phát triển và vượt qua thách thức, nguy cơ trong phát triển

Cách đây 26 năm, vào tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt nam đã đi tới một quyết định quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triển của đất nước. Đó là đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, thay đổi mô hình phát triển, thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đồng thời thực hiện dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống nhằm vượt qua các lực cản của phát triển và khai thông các động lực thúc đẩy phát triển, giải phóng mọi tiềm năng của xã hội hướng tới phát triển.

Đây là một quyết định có ý nghĩa đột phá đối với Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước đang lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, với lạm phát “phi mã” 3 con số (776%/năm). Đổi mới là một quyết sách chiến lược của Đảng, đổi mới mang tầm vóc của một cuộc cách mạng. Mục đích trực tiếp, trước mắt của đổi mới là đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng dần mức sống dân cư, phục hồi và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo của Đảng.

Mục đích cơ bản, sâu xa, lâu dài là tìm tòi và xác lập mô hình phát triển mới thay thế mô hình cũ không có động lực phát triển, đã bị thực tiễn cuộc sống vượt qua. Về thực chất, đó là đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội, hình thành tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội sao cho phù hợp với quy luật khách quan, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang ngày càng trở thành một xu thế không thể đảo ngược.

Đổi mới là một tất yếu khách quan đối với sự phát triển của Việt Nam, là đón kịp thời cơ lớn để phát triển, đồng thời vượt qua những thách thức và nguy cơ không kém phần nghiệt ngã trên con đường phát triển.

Đảng chúng tôi nhấn mạnh, đổi mới phải bắt đầu từ đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, bởi phải đổi mới nhận thức để đổi mới hành động, có cách nghĩ mới để thúc đẩy cách làm mới. Kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định phát triển, do đó trong đổi mới tư duy phải chú trọng trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đó là chuyển từ nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hóa tập trung quan liêu với cơ chế quản lý theo kiểu hành chính - mệnh lệnh, bao cấp và phương thức phân phối bình quân, không có động lực phát triển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, áp dụng cơ chế thị trường, tuân theo quy luật giá trị, quy luật thị trường, chấp nhận cạnh tranh và phân hóa như một hệ quả tất yếu của quy luật thị trường.

Từ thực tiễn đổi mới, Việt Nam không chỉ áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng sự điều tiết của kế hoạch vĩ mô, xóa bỏ chế độ bao cấp và bình quân, chế độ tem phiếu, để thị trường điều tiết giá cả hàng hóa tiêu dùng mà còn từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường với cơ cấu nhiều thành phần, thực hiện đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các hình thức phân phối. Trong khi đảm bảo nhất quán vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, phát triển kinh tế tập thể, làm cho kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân, Đảng chúng tôi chủ trương phát triển mạnh mẽ, lâu dài kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm làm cho kinh tế phát triển năng động, có mức tăng trưởng cao, nhờ đó, có điều kiện cải thiện không ngừng đời sống, mức sống của dân cư.

Mục đích của việc phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường là để giải phóngphát triển lực lượng sản xuất của xã hội, đó là cơ sở để từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới mà hạt nhân của nó là sở hữu xã hội. Quan hệ sản xuất mới tiến bộ phù hợp chỉ có thể được từng bước định hình trên nền tảng lực lượng sản xuất của xã hội được giải phóng và phát triển.

Đây là một trong những điểm căn bản của đổi mới tư duy kinh tế. Hơn nữa, chính kinh tế thị trường mới chứa đựng nội dung kinh tế để phát triển dân chủ. Phát triển kinh tế thị trường, tận dụng mặt tích cực của nó để tạo việc làm, nâng cao mức sống của mọi người dân, khuyến khích làm giàu một cách chính đáng bằng sức lao động và năng lực sáng tạo của người lao động, tuân thủ pháp luật, tạo cơ hội cho mọi người dân được phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm - đó là biểu hiện trực tiếp và chủ yếu của dân chủ hóa kinh tế, phương diện quan trọng hàng đầu của dân chủ hóa xã hội nói chung. Có một cái nhìn mới đối với thị trường và kinh tế thị trường, không thành kiến, thiên kiến như trước đây, không đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, xem kinh tế thị trường là thành quả của nền văn minh nhân loại, có thểcần phải áp dụng vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là một nhận thức mới của chúng tôi trong đổi mới. Sự đổi mới nhận thức này dẫn tới đổi mới chính sách, cơ chế không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn trong quản lý xã hội.

Thực tiễn đã cho thấy, không một nước nào muốn phát triển và trở thành hiện đại mà lại ở bên ngoài kinh tế thị trường. Như một tất yếu tự nhiên, đã đi vào kinh tế thị trường thì đổi mới phải đồng thời mở cửa và hội nhập quốc tế với thế giới bên ngoài. Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, hợp tác song phương và đa phương, đa phương hóa, đa dạng hóa trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh với các đối tác bạn bè trên thế giới.

Chính nhờ đón kịp thời cơ phát triển ấy mà nền kinh tế Việt Nam nhanh chóng thoát ra khỏi sự trì trệ, phát triển năng động, từ chỗ triền miên thiếu lương thực và hàng hóa tiêu dùng đã bảo đảm được lương thực cho nhu cầu trong nước và trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

Thành tựu hơn 1/4 thế kỷ đổi mới mà Việt Nam đã đạt được là giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, sau 10 năm đầu đổi mới (1986 - 1996), không để xảy ra khủng hoảng chính trị, giữ vững ổn định chính trị - xã hội tích cực. Từ đó, với thế và lực mới, Việt Nam đã ra khỏi tình trạng lạc hậu, kém phát triển sau 10 năm tiếp theo (1996 - 2006), đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để tạo nền tảng cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và tới giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trên cơ sở đổi mới kinh tế có kết quả bước đầu, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt, các quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam được mở rộng, tạo điều kiện cho Việt nam phát triển, Đảng chúng tôi đã chủ trương đổi mới hệ thống chính trị từng bước, thận trọng, giữ vững nguyên tắc, kiên định con đường phát triển xã hội chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Dân chủ hóa các lĩnh vực của đời sống và đổi mới hệ thống chính trị là nhằm mục đích xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, coi dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và động lực của đổi mới, của phát triển kinh tế.

Do đó, đổi mới của Việt Nam là đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường cũng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên lý căn bản của định hướng xã hội chủ nghĩa đối với phát triển kinh tế thị trường là phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước, trong từng chính sách. Thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và an sinh xã hội nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Công bằng xã hội không chỉ thể hiện trong lĩnh vực phân phối lợi ích theo kết quả lao động mà sâu xa hơn còn là công bằng và bình đẳng về cơ hội phát triển cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Việt Nam chú trọng thực hiện chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo, khắc phục tình trạng phân hóa giàu nghèo vượt quá giới hạn cho phép để tránh nguy cơ rơi vào bần cùng hóa những tầng lớp cơ bản trong xã hội, nhất là đối với nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số ở những vùng đặc biệt khó khăn. Bằng các chính sách điều tiết xã hội và tăng cường thể chế luật pháp để chống lại những thủ đoạn làm giàu bất chính, phi pháp, lợi dụng những kẽ hở của luật pháp và những yếu kém trong quản lý để trục lợi, cố ý làm trái, gây thiệt hại tới lợi ích chung của cộng đồng, nhất là chống tham nhũng, lãng phí. Nhà nước cũng quan tâm đầu tư các nguồn lực để phát triển giáo dục, y tế, giải quyết nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp, thực hiện những chính sách ưu đãi đối với những người có công với nước. Bằng cách đó, đổi mới đem lại lợi ích cho người dân, làm cho người dân được thụ hưởng những lợi ích thiết thực, được đáp ứng nhu cầu hợp lý - vật chất cũng như tinh thần. Đó là những chính sách và giải pháp cần thiết để nâng cao tính tích cực lao động, tính tích cực chính trị - xã hội của quần chúng, làm cho quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, củng cố đoàn kết, phát triển dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội, tạo ra ổn định chính trị - xã hội tích cực, thúc đẩy đổi mới.

Đây cũng chính là nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân để vượt qua các thách thức, nguy cơ trong phát triển, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường những đảm bảo chính trị cho phát triển kinh tế thị trường, chủ động khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường, những hệ lụy do kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập gây ra.

Kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới cho thấy, nếu tận dụng kịp thời và có hiệu quả thời cơ thì thuận lợi sẽ tăng lên, khó khăn sẽ giảm đi. Hiệu quả của việc tận dụng thời cơ làm cho thách thức, nguy cơ sẽ giảm dần và vượt qua được. Nếu thời cơ bị bỏ lỡ thì thách thức, nguy cơ vốn có sẽ gay gắt thêm, thậm chí trở nên nan giải, khó có thể giải quyết được, có thể dẫn tới khủng hoảng và đổ vỡ.

Kiên định về nguyên tắc, thực hiện đổi mới đồng bộ, có biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, có bước đi thích hợp, chọn đúng khâu đột phá để phát triển - đó là những thu hoạch mà chúng tôi rút ra qua thực tiễn đổi mới hơn 25 năm qua.

Theo chúng tôi, kết quả và thành tựu của đổi mới được tạo ra từ sự tác động qua lại, tạo thành sức mạnh tổng hợp của đổi mới bởi những nhân tố sau đây:

Thứ nhất, đổi mới là sự nghiệp sáng tạo của toàn dân, do đó phải phát huy được vai trò, sức mạnh của toàn dân, phải dựa vào dân, đem lại lợi ích thiết thực cho dân để tạo động lực phát triển, lôi cuốn thu hút mọi tầng lớp nhân dân tham gia phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa cũng như củng cố, bảo vệ chế độ chính trị.

Thứ hai, đổi mới phải dựa trên tiền đề ổn định tích cực, nhất là ổn định chính trị. Giải quyết mối quan hệ đổi mới - ổn định - phát triển là điểm mấu chốt, tổng quát để giải quyết các mối quan hệ khác trong tiến trình đổi mới.

Thứ ba, kết hợp xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tiến hành đổi mới đồng bộ, Đảng đi tiên phong, tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đổi mới xã hội.

Thứ tư, phải chủ động mở cửa, hội nhập, kết hợp phát huy nội lực với khai thác ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững.

Thứ năm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, chú trọng xây dựng Đảng, phát triển dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền là rường cột của hệ thống chính trị, đảm bảo cho chính trị đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, làm cho Đảng ngang tầm với tình hình và nhiệm vụ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố vững chắc sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân trong tình hình mới, trước yêu cầu mới

Thưa các đồng chí!

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, ở Việt Nam lại chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền, là một vấn đề rất hệ trọng, luôn luôn là vấn đề thường trực được Đảng chúng tôi đặc biệt quan tâm.

Chỉ tính riêng thời kỳ đổi mới, hơn 25 năm qua, từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết quan trọng về xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Hơn nữa, trên thực tế, các nghị quyết đại hội và các nghị quyết Trung ương qua các nhiệm kỳ đại hội, vấn đề xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức luôn nổi bật, thấm nhuần trong nội dung các nghị quyết.

Đảng lãnh đạo tiến trình đổi mới là lãnh đạo toàn diện, xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng cũng phải có nội dung toàn diện. Gần đây, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI, Đảng còn nhấn mạnh xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nghị quyết Trung ương 4 đề cập đến những vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay.

Kiên quyết phòng ngừa và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp được xác định là vấn đề cấp bách, bức xúc nhất. Ngoài ra, còn là vấn đề chất lượng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp chiến lược, tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy trong quan hệ với các tổ chức chính quyền, đoàn thể tương ứng. Đây là Nghị quyết mới nhất về xây dựng Đảng. Trong các tổ chức đảng, từ cơ quan đầu não, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cho đến các cấp ủy địa phương và cơ sở đang diễn ra sinh hoạt chính trị, tự kiểm điểm, tự phê bình và phê bình để thực hiện Nghị quyết về xây dựng Đảng. Đây là sự kiện không những thu hút sự chú ý của toàn Đảng mà còn có sự quan tâm, theo dõi của toàn dân. Chịu trách nhiệm cao nhất đối với giai cấp, nhân dân và dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng nêu cao quyết tâm chính trị, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, quyết tâm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi sự suy thoái, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mà thực chất là bảo vệ dân.

Xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được thực hiện với nhiều giải pháp, từ đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, xiết chặt kỷ luật kỷ cương trong Đảng, nâng cao hiệu quả trong giáo dục, quản lý cán bộ đảng viên.

Cũng như vậy, Đảng đang thể hiện quyết tâm đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thay đổi mô hình tổ chức bộ máy chỉ đạo, điều hành chống tham nhũng nhằm tạo chuyển biến thực sự trong việc giải quyết tình trạng từ bấy lâu nay vẫn được coi là “quốc nạn”.

Đây cũng là vấn đề nổi bật, có tính thời sự cấp bách hiện nay, gắn chặt với nhiệm vụ xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Với một Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm quyền, nhất là lãnh đạo và cầm quyền trong tình hình hiện nay với đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế, tình hình quốc tế và thế giới lại diễn biến phức tạp, tiềm tàng những bất ổn định, những đảo lộn khó lường… một vấn đề quan trọng đặt ra là, Đảng phải giữ vững phương hướng chính trị, không phạm sai lầm về đường lối và mất phương hướng. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định lập trường, quan điểm, giữ vững lý tưởng, mục tiêu cách mạng, bất luận trong tình huống nào. Nhớ lại sự kiện lịch sử 20 năm về trước, khi Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ thể chế, Đảng Cộng sản ở đó mất vai trò cầm quyền, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, cách mạng lâm vào thoái trào, trật tự thế giới thay đổi, trong nước cuộc khủng hoảng lại đang diễn ra ở mức độ trầm trọng. Các thế lực đế quốc chủ nghĩa chọn Việt Nam làm nơi phản kích chiến lược, hòng xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lật đổ Đảng Cộng sản.

Trước tình thế hiểm nghèo đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phải có một Cương lĩnh mới, đó là tuyên bố chính trị của Đảng, là ngọn cờ chiến đấu tập hợp quần chúng để khẳng định sự trung thành với lý tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội VII đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (năm 1991). Nhờ có Cương lĩnh đó mà đổi mới của Việt Nam đã không chệch hướng, cách mạng Việt Nam đã không mất phương hướng ở thời điểm bước ngoặt. Có thể nói, đó là sự thoát hiểm để tồn tại, đứng vững và phát triển như ngày nay. Đại hội XI (năm 2011) tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh, 25 năm đổi mới, thông qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển 2011, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, hướng tầm nhìn tới giữa thế kỷ XXI, với 5 quan điểm phát triển bền vững. Đó là những văn kiện có tầm quan trọng chiến lược, chỉ dẫn và định hướng cho sự phát triển của Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

Thực tiễn đó cho thấy, muốn có đường lối đúng, muốn giữ vững phương hướng chính trị, Đảng phải đặc biệt coi trọng phát triển lý luận, gắn chặt với tổng kết thực tiễn. Tiềm lực tư tưởng trí tuệ của Đảng, trình độ lý luận của Đảng chính là bảo đảm về tư tưởng, lý luận cho tính đúng đắn, sáng suốt của đường lối chính trị, của lãnh đạo chính trị.

Chính từ tổng kết thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, thực tiễn biến đổi của thời đại và thế giới đương đại, nhận rõ xu hướng, triển vọng của lịch sử, Đảng chúng tôi đã có những phát triển mới về lý luận đổi mới, cũng là lý luận chủ nghĩa xã hội Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội XI đã xác định trong Cương lĩnh 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, 8 phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, 8 mối quan hệ lớn phải giải quyết trong tiến trình đổi mới. Đó là một dấu mốc về sự trưởng thành lý luận của Đảng. Chỉ riêng việc nhận thức hệ mục tiêu của đổi mới, đối với chúng tôi cũng là một quá trình. Nếu Đại hội VI mới chỉ nhấn mạnh “Dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” thì đến Đại hội VII, trong hệ mục tiêu đã bổ sung một mục tiêu bản chất, đó là công bằng xã hội.

Đến Đại hội VIII (năm 1996), bắt đầu hình thành nhận thức mới, quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến Đại hội IX (năm 2001), lần đầu tiên, dân chủ được khẳng định trong hệ mục tiêu của đổi mới. Đại hội X (năm 2006), “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” được hình dung là đặc trưng tổng quát của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Và đến Đại hội XI vừa qua (năm 2011), dân chủ được đặt lên hàng đầu trong hệ giá trị của phát triển, của đổi mới. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Ví dụ nêu trên cho thấy vai trò của lý luận đối với lãnh đạo của Đảng và với sự phát triển của xã hội.

Cùng với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, chúng tôi đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng về tổ chức, về đạo đức, lối sống, về tư cách đảng viên trong sự nghiệp đổi mới, về công tác cán bộ, chính sách cán bộ, quy hoạch và luân chuyển cán bộ của Đảng, kể cả đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, giám sát trong Đảng, giám sát của dân đối với Đảng.

Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền, đã thấy rõ, Đảng mạnh phải có Nhà nước pháp quyền mạnh, phải có Mặt trận và hệ thống chính trị nói chung hoạt động theo tinh thần đổi mới, với phương pháp mới, hiệu quả thiết thực, chống hành chính hóa, quan liêu hóa, hình thức hóa, phải là đại diện cho tiếng nói của dân trong kiểm tra, giám sát, phản biện đối với Đảng và Nhà nước.

Nhà nước không chỉ chú trọng phân công, phối hợp trong các bộ phận hợp thành, phải đặt biệt chú trọng kiểm soát quyền lực, chủ động chống nguy cơ tha hóa, biến dạng dân chủ và quyền làm chủ của dân từ bộ máy công quyền. Phải đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính công minh bạch, tăng cường chức năng dịch vụ xã hội của Nhà nước.

Một tư tưởng lớn xuyên suốt, bao trùm, đó là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, bảo đảm hiệu lực của Nhà nước pháp quyền, tính nghiêm minh luật pháp, tìm tòi cơ chế bảo hiến và xử lý vi hiến, bảo vệ quyền và lợi ích của dân. Phân định rõ rệt, minh định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng, Nhà nước với Mặt trận, đoàn thể và với dân, bảo đảm trọng dân, trọng pháp… đó là những vấn đề Đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết.

Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng đẩy mạnh trong toàn Đảng, toàn dân học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành nhiệm vụ chính trị thường xuyên thấm sâu vào Đảng, vào dân, thành một nhu cầu văn hóa, tạo ra động lực văn hóa tinh thần để xây dựng Đảng và phát triển xã hội.

Đảng thực hiện vai trò và thể hiện năng lực lãnh đạo của Đảng trên tất cả những phương diện ấy.

Quá trình đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam sẽ làm cho quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng được định hình, được thể chế hóa và thực sự phát huy tác dụng, hiệu quả. Mấu chốt vẫn là sự lãnh đạo, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Theo đúng chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đang ra sức đổi mới, tìm tòi, thực hành trong đời sống của Đảng, sao cho:

- Lãnh đạo một cách khoa học, lãnh đạo một cách dân chủ, lãnh đạo bằng sự gương mẫu.

- Lãnh đạo công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội sao cho đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại. Bước tiến và thành công của đổi mới, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được quy định bởi yêu cầu đó.

Thưa các đồng chí!

Trên đây, tôi đã nêu lên một cách tổng quát về đổi mới ở Việt Nam, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng trong thực tiễn đổi mới và yêu cầu, nội dung xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI nhằm giải quyết một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.

Đó mới là những tổng kết và kinh nghiệm bước đầu. Bên cạnh những kết quả, thành tựu, chúng tôi cũng tự ý thức và tự phê phán một cách nghiêm túc những yếu kém, khuyết điểm, suy thoái cần phải vượt qua.
Chúng tôi hy vọng rằng, các đồng chí Cu-ba, trong buổi đầu cập nhật mô hình phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Cu-ba sẽ cùng với các đồng chí Việt Nam trao đổi, thảo luận, tham khảo và học hỏi lẫn nhau cùng đẩy mạnh đổi mới, cùng hướng tới phát triển.

Xin chúc hội thảo của chúng ta thành công, chúc tình đoàn kết chiến đấu và hợp tác giữa hai Đảng, tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam - Cu-ba mãi mãi phát triển tốt đẹp, bền vững.

Chúc các đồng chí Cu-ba có những ngày làm việc và ở thăm Việt Nam thoải mái, vui vẻ trong tình cảm nồng hậu, mến khách của nhân dân Việt Nam chúng tôi.

Xin trân trọng cảm ơn./.