Chính sách ngoại giao của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương
TCCS - Mặc dù đã có nhiều tuyên bố chính trị của các nhà lãnh đạo Nga về việc chuyển hướng chính sách đối ngoại ưu tiên và tập trung vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương, song sự đa dạng hóa và hội nhập vào khu vực này của Nga vẫn bị cản trở bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Cuộc xung đột Nga - Ukraine và mối quan hệ “xuống dốc” giữa Nga với Mỹ và phương Tây càng đẩy cao nhu cầu chuyển hướng ưu tiên ngoại giao từ Tây sang Đông của Nga. Tuy nhiên, việc hiện thực hóa chiến lược này vẫn còn đứng trước không ít thách thức.
Nga điều chỉnh ưu tiên ngoại giao từ Tây sang Đông
Trong suốt chiều dài lịch sử, Nga luôn định hình bản sắc ngoại giao dựa vào không gian châu Âu - Đại Tây Dương. Các đối tác truyền thống châu Âu luôn giữ vai trò và ảnh hưởng lớn để Nga xây dựng và triển khai chính sách đối ngoại. Tuy nhiên, kể từ đầu thế kỷ XXI đến nay, tư duy ngoại giao truyền thống lấy phương Tây làm trung tâm của Nga bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng lớn. Có ba nhân tố chính tác động đến tiến trình này, bao gồm: 1- Các mối đe dọa từ môi trường địa - chính trị xung quanh nước Nga; 2- Việc Mỹ tăng cường can dự tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đẩy mạnh cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc; 3- Vị thế địa - chiến lược, những lợi ích kinh tế tiềm năng mà khu vực châu Á - Thái Bình Dương có thể mang lại cho Nga trong bối cảnh địa - chính trị toàn cầu có nhiều thay đổi.
Liên quan đến yếu tố môi trường an ninh xung quanh Nga, tác động lớn nhất chính là việc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Mỹ không ngừng gia tăng, mở rộng ảnh hưởng về phía Đông, sang các nước Baltic - vốn là địa bàn trọng yếu nằm trong vùng ảnh hưởng của Nga. Các cuộc “cách mạng màu” lần lượt nổ ra ở Gruzia và Ukraine trong giai đoạn 2003 - 2005, việc Mỹ đẩy nhanh triển khai căn cứ chống tên lửa ở Đông Âu, cuộc khủng hoảng Ukraine năm 2014 đã thúc đẩy Nga điều chỉnh chính sách đối ngoại đối với phương Tây. Quan hệ hai bên dần đi xuống và rạn nứt nghiêm trọng, nhất là sau sự kiện bán đảo Crime trưng cầu ý dân sáp nhập vào Nga năm 2014, tiếp đó là việc các nước phương Tây loại Nga khỏi Nhóm tám quốc gia công nghiệp hàng đầu thế giới (G-8). Chiến lược An ninh quốc gia Nga năm 2021 đã coi việc các nước phương Tây theo đuổi chủ nghĩa bá quyền nước lớn là một trong những mối đe dọa an ninh hàng đầu đối với Nga, sẽ dẫn đến môi trường địa - chính trị của Nga ngày càng xấu đi. Trong bản Chiến lược đối ngoại mới được Nga công bố vào tháng 3-2023, Nga tiếp tục xác định hầu hết các quốc gia châu Âu đang theo đuổi chính sách “hiếu chiến” đối với Nga và đang tạo ra các mối đe dọa đối với an ninh, chủ quyền của Nga. Nga chủ trương kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia của mình với những ưu tiên: giảm thiểu mức độ và vô hiệu hóa các mối đe dọa đối với an ninh, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, các giá trị đạo đức, tinh thần truyền thống và sự phát triển kinh tế - xã hội của Nga từ phía các quốc gia “không thân thiện”. Từ thời điểm này, có thể thấy, Nga đã dần từ bỏ kế hoạch về một sự “hội nhập” với phương Tây, chính thức công nhận sự chia rẽ sâu sắc trong quan hệ giữa hai bên. Quan hệ Nga - Mỹ, Nga - châu Âu dần rơi xuống mức thấp nhất kể từ Chiến tranh lạnh, mà đỉnh điểm là cuộc xung đột Nga - Ukraine kéo dài từ cuối tháng 2-2022 đến nay.
Nhân tố thứ hai là việc Mỹ tăng cường can dự tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đẩy mạnh cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc. Từ chiến lược “tái can dự” dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Barack Obama đến chiến lược “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Donal Trump và Tổng thống Mỹ Joe Biden, Mỹ cùng với đồng minh châu Âu đã từng bước củng cố, tập hợp lực lượng, mở rộng phạm vi ảnh hưởng tại khu vực chiến lược và có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới này, coi đây là trọng tâm trong cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc. Bên cạnh đó, sự hình thành Nhóm “Bộ tứ” (QUAD) và Thỏa thuận quốc phòng ba bên giữa Australia, Anh và Mỹ (AUKUS) cũng đã dẫn đến nhiều thay đổi trong cán cân quyền lực tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Điều này khiến Nga cảm thấy “bất an” vì về mặt chiến lược, phương Đông vẫn luôn nhận được sự quan tâm của Nga cả về địa - chính trị lẫn địa - kinh tế. Năm 2016, Tổng thống Nga V. Putin đã đề xuất chiến lược đối tác Đại Á - Âu, với tham vọng hình thành một không gian chính trị, kinh tế, an ninh và văn hóa trải rộng từ Á sang Âu trên nền tảng Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU), Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Gần đây, trong bối cảnh quan hệ với Mỹ và phương Tây suy giảm nghiêm trọng, Nga càng đẩy mạnh chuyển hướng chính sách đối ngoại sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chiến lược An ninh quốc gia của Nga trong những năm gần đây đã coi châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn quan trọng để Nga củng cố và gia tăng ảnh hưởng, trong đó Nga chủ trương phát triển quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác tại khu vực.
Yếu tố thứ ba là vị thế địa - kinh tế của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu và những lợi ích kinh tế rõ ràng mà khu vực này có thể mang đến cho Nga, nhất là trong lĩnh vực hợp tác năng lượng - trụ cột của nền kinh tế Nga. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương được dự báo sẽ tiếp tục duy trì sự năng động, phát huy vai trò “đầu tàu” kinh tế toàn cầu với dự báo tăng trưởng trung bình đạt 5,2%/năm vào năm 2030, chiếm 40% tổng sản phẩm nội địa (GDP) toàn cầu, là trung tâm của nhiều liên kết kinh tế và sáng kiến quốc tế. Các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng có vị trí ngày càng lớn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng chiếm hơn 40% số lượng năng lượng tiêu thụ trên toàn cầu và nhu cầu về tài nguyên năng lượng tiếp tục gia tăng mạnh mẽ trong những năm tới. Mục tiêu trong chiến lược đa dạng hóa thị trường xuất khẩu năng lượng được đề ra trong Chiến lược năng lượng hướng Đông của Nga tập trung chính vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Thông điệp liên bang của Tổng thống Nga V. Putin trước Quốc hội Nga năm 2016 nhấn mạnh mục tiêu chính sách “hướng Đông” của Nga không chỉ là những tính toán ngắn hạn do khủng hoảng quan hệ với Mỹ và EU, mà còn do những lợi ích quốc gia dài hạn và xu hướng phát triển toàn cầu(1). Tiềm lực khu vực châu Á - Thái Bình Dương có hiệu quả đối với việc chấn hưng tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực phía Đông nước Nga và tăng cường vai trò, địa vị trong khuôn khổ khu vực này.
Những nỗ lực tăng cường hiện diện tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Nga
Trong những năm gần đây, Nga từng bước đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước châu Á - Thái Bình Dương trên cả kênh song phương và đa phương, đạt nhiều kết quả quan trọng, nhất là trước khi Nga triển khai “chiến dịch quân sự đặc biệt” tại Ukraine. Nga đã phát triển quan hệ với nhiều đối tác tại khu vực, bao gồm các nước lớn có ảnh hưởng quan trọng, như Trung Quốc, Ấn Độ; các đối tác truyền thống, như Mông Cổ, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Triều Tiên, Việt Nam, ASEAN và kể cả các đồng minh truyền thống của Mỹ, như Nhật Bản, Hàn Quốc.
Trung Quốc là mối quan hệ song phương quan trọng nhất của Nga ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2021, hai nước kỷ niệm 20 năm ký kết Hiệp ước láng giềng hữu nghị và hợp tác Trung Quốc - Nga, đồng thời gia hạn hiệp ước này thêm 5 năm. Tháng 2-2022, nhân chuyến thăm Trung Quốc và dự lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông Bắc Kinh của Tổng thống Nga V. Putin, hai bên đã ra Tuyên bố chung Trung Quốc - Nga về quan hệ quốc tế và phát triển bền vững toàn cầu trong kỷ nguyên mới. Hợp tác năng lượng Trung Quốc - Nga không ngừng được củng cố và phát triển với nhiều dự án quan trọng được hoàn thiện và triển khai, như dự án đường ống dẫn dầu xuyên Siberia đến bờ Thái Bình Dương (ESPO), dự án đường ống dẫn khí đốt “sức mạnh Siberia 1” chạy qua vùng Viễn Đông sang khu vực châu Á với điểm đến đầu tiên là Trung Quốc. Nga hiện đang thúc đẩy để đạt được thỏa thuận về xây dựng đường ống “sức mạnh Siberia 2” với Trung Quốc. Đối với Nga, Trung Quốc không chỉ là chỗ dựa chiến lược, mà còn là đối tác thương mại và là nguồn thu hút đầu tư quan trọng. Chiến lược đối ngoại mới của Nga (tháng 3-2023) xác định tăng cường quan hệ đối tác chiến lược và hợp tác toàn diện với Trung Quốc, chủ trương kết hợp EAEU với Sáng kiến “Vành đai, Con đường” (BRI) của Trung Quốc để xây dựng không gian hợp tác bình đẳng và cùng có lợi trên toàn lục địa Á - Âu.
Ấn Độ luôn là một trong những đối tác quan trọng nhất của Nga ở khu vực châu Á. Trong chiến lược đối ngoại mới, Nga đã bổ sung nội dung “xây dựng quan hệ đối tác chiến lược ưu tiên đặc biệt” với Ấn Độ, đồng thời nỗ lực lấy lại động lực cho mối quan hệ hai nước, nâng cao mức độ và mở rộng hợp tác trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở cùng có lợi. Thông qua các thỏa thuận hợp tác được ký kết tại Hội nghị cấp cao Nga - Ấn Độ hằng năm (tổ chức từ năm 2000), hai bên đều thể hiện mong muốn thúc đẩy hợp tác song phương trong nhiều vấn đề, từ thương mại, kết nối và năng lượng đến các vấn đề an ninh khu vực. Tháng 12-2021, hai nước đã ký kết “Thỏa thuận hợp tác quân sự và kỹ thuật” giai đoạn 2021 - 2030. Nga cũng là nhà cung cấp vũ khí chính của Ấn Độ, đồng thời hai bên phối hợp sản xuất nhiều loại vũ khí, trang thiết bị quốc phòng chiến lược, trong đó đáng chú ý là thỏa thuận Nga cung cấp hệ thống tên lửa phòng không S400 cho Ấn Độ. Nga còn thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ trong khuôn khổ các cơ chế hợp tác đa phương, nổi bật nhất là SCO, Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Nga cũng là nước đóng vai trò tích cực trong việc vận động và thiết lập cơ chế ba bên Trung Quốc - Nga - Ấn Độ (RIC)(2) với mong muốn hình thành một cơ chế hợp tác “tam giác” giữa ba cường quốc trên không gian Á - Âu rộng lớn.
Trong quan hệ với Nhật Bản và Hàn Quốc, xuất phát từ thực tế cả hai nước này vốn là đồng minh thân cận của Mỹ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nga chủ trương tập trung ổn định quan hệ, nỗ lực đạt được sự tương tác mang tính xây dựng trên cơ sở kiểm soát tốt những bất đồng với Nhật Bản và Hàn Quốc. Quan hệ Nga - Nhật Bản đạt được những tiến triển đáng kể, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe khi Nhật Bản thay đổi lập trường vốn trước nay “không tách rời vấn đề kinh tế và chính trị” sang sử dụng chính sách thúc đẩy hợp tác kinh tế song song với đàm phán về lãnh thổ. Nga đã phát triển quan hệ với Nhật Bản để tìm kiếm lợi ích về kinh tế và an ninh cũng như cân bằng cán cân quyền lực tại khu vực. Đối với Hàn Quốc, trao đổi cấp ngoại trưởng giữa hai nước diễn ra thường xuyên. Nga coi Hàn Quốc là đối tác quan trọng và đầy hứa hẹn tại khu vực, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định trên bán đảo Triều Tiên và khu vực Đông Bắc Á, chủ trương ủng hộ các bên liên quan từ bỏ chạy đua vũ trang và ngừng hành động gia tăng căng thẳng quân sự. Sau Hội nghị Ngoại trưởng tại Thủ đô Seoul (Hàn Quốc, tháng 3-2021), hai bên nhất trí đẩy nhanh đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư. Trong các năm 2020 và 2021, hai bên đã tổ chức nhiều hoạt động giao lưu nhân dân nhằm thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau, đặc biệt giữa các địa phương hai nước.
CHDCND Triều Tiên, Mông Cổ và Việt Nam là những đối tác châu Á truyền thống quan trọng để Nga triển khai chính sách đối ngoại tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tháng 12-2021, Nga và Mông Cổ đã ký kết Tuyên bố chung nhân kỷ niệm 100 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, nhấn mạnh hợp tác quân sự và kỹ thuật quân sự là một bộ phận quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. Trong khi đó, Nga và CHDCND Triều Tiên luôn dành sự ủng hộ cho nhau qua các kênh gián tiếp, điển hình như năm 2021, Nga và Trung Quốc đề xuất một nghị quyết đệ trình lên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ủng hộ việc nới lỏng các biện pháp trừng phạt đối với CHDCND Triều Tiên. Việt Nam là đối tác để Nga mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á. Hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, hợp tác trên các lĩnh vực, nhất là quốc phòng, năng lượng đạt được nhiều bước tiến vững chắc.
ASEAN là một trong những khu vực trọng điểm của chiến lược “chuyển sang hướng Đông” của Nga, do vậy, Nga hết sức coi trọng việc không ngừng mở rộng các kênh đối thoại nhằm làm phong phú nội hàm quan hệ đối tác chiến lược với ASEAN. ASEAN tiếp tục là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga trong khuôn khổ Sáng kiến Đại Á - Âu thông qua các cơ chế do ASEAN giữ vai trò trung tâm và các khuôn khổ, như SCO, EAEU, cam kết thúc đẩy hợp tác toàn diện với ASEAN, nhất là trong các lĩnh vực mà Nga có thế mạnh. Ngoài ra, Nga cũng từng bước đẩy mạnh quan hệ với một số nước trong khu vực, như Indonesia, Lào, Philipines, Thái Lan, Singapore, Malaysia. Cuộc tập trận chung trên biển lần đầu tiên giữa Nga và các nước ASEAN (tháng 12-2021) được coi là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hợp tác giữa hai bên với sự tham gia của đầy đủ 10 nước ASEAN. Chiến lược đối ngoại mới của Nga đặt mục tiêu cùng ASEAN và các nước trong khu vực thúc đẩy hình thành một cấu trúc an ninh toàn diện trong khu vực mở, không thể chia cắt, minh bạch, đa phương, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi trên cơ sở tập thể, không liên kết thành khối.
Bên cạnh việc đẩy mạnh quan hệ chính trị - ngoại giao, quốc phòng, Nga cũng tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế, triển khai nhiều biện pháp nhằm đưa khu vực Viễn Đông của Nga trở thành điểm đột phá trong hội nhập kinh tế với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Diễn đàn Kinh tế phương Đông trải qua 8 lần tổ chức đã trở thành cơ chế quan trọng nhất để Nga thiết lập và kết nối với các nền kinh tế lớn trong khu vực châu Á, như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, ASEAN… Quy mô thương mại giữa Nga và nhiều đối tác ở khu vực ghi nhận sự tăng trưởng khá ấn tượng, nhất là trước khi xảy ra cuộc xung đột Nga - Ukraine. Bất chấp các lệnh trừng phạt và phong tỏa của Mỹ và phương Tây, hợp tác thương mại của Nga với các đối tác châu Á - Thái Bình Dương tăng 13,7% vào năm 2022 và 18,3% trong 6 tháng đầu năm 2023(3). Đặc biệt, tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc với Nga tăng mạnh, dự kiến sẽ đạt mục tiêu 200 tỷ USD trước thời hạn.
Kể từ khi cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra, lập trường của các nước châu Á - Thái Bình Dương đối với Nga nhìn chung khá ôn hòa, thậm chí một số nước còn tăng cường hợp tác với Nga. Đơn cử như, Trung Quốc mua khí tự nhiên hóa lỏng của Nga ở mức cao kỷ lục, số lượng dầu mỏ và than nhập khẩu cũng tăng mạnh. Bất chấp sự phản đối của phương Tây, số lượng dầu mỏ nhập khẩu vào Ấn Độ từ Nga vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao kỷ lục. Tại Đông Nam Á, Thái Lan không tham gia trừng phạt Nga, đồng thời nỗ lực khôi phục các liên kết kinh tế giữa hai nước. Indonesia với vai trò là chủ nhà Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G-20) năm 2023 giữ quan điểm trung lập, đồng thời hai bên thúc đẩy dự án xây dựng nhà máy lọc dầu trị giá 16 tỷ USD tại Indonesia.
Một số thách thức và hạn chế trong triển khai chính sách đối ngoại của Nga ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương
Thách thức lớn nhất trong quan hệ giữa Nga và các đối tác châu Á - Thái Bình Dương hiện nay chính là những căng thẳng địa - chính trị, tác động từ các lệnh trừng phạt liên quan đến cuộc xung đột Nga - Ukraine, thể hiện rõ nhất ở tác động kinh tế và ngoại giao. Liên quan đến các hoạt động kinh tế, việc Mỹ và phương Tây loại Nga khỏi thị trường tài chính và hệ thống thanh toán do phương Tây giữ vai trò chủ đạo sẽ khiến chi phí trong các giao dịch thương mại giữa Nga và các đối tác châu Á - Thái Bình Dương gia tăng đáng kể. Bên cạnh đó, việc Mỹ kiểm soát xuất khẩu hàng hóa với Nga và nỗi lo về các lệnh trừng phạt “thứ cấp” đã và đang tạo ra những lực cản tâm lý nhất định, ảnh hưởng đến trao đổi thương mại - đầu tư giữa các nước với Nga.
Trên bình diện chính trị - ngoại giao, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore là những nước tỏ rõ lập trường và có những bước đi quyết liệt cùng Mỹ và phương Tây áp đặt các lệnh trừng phạt, phong tỏa đối với Nga. Nga đã liệt những nước này vào danh sách “các quốc gia không thân thiện”. Điều này đồng nghĩa với việc “đóng băng” quan hệ giữa Nga và các nước này, thậm chí có phần căng thẳng hơn, như cả Nga và Nhật Bản đều quay trở lại đẩy cao tuyên bố chủ quyền đối với các vùng đảo tranh chấp. Về lâu dài, có thể nghiêm trọng hơn là nguy cơ đối đầu, chia rẽ, sự xuất hiện một cuộc chiến tranh lạnh mới và quan hệ với Nga trở thành vấn đề mà các đảng phái tại Nhật Bản, Hàn Quốc sử dụng để kích động thêm xu hướng bảo thủ trong dư luận, phục vụ các mục đích chính trị. Điều này sẽ làm suy giảm tiềm lực phát triển quan hệ giữa Nga - Hàn Quốc, Nga - Nhật Bản về lâu dài. Đồng thời, trong chính sách ngoại giao châu Á - Thái Bình Dương, Nga chỉ có thể nghiêng về các đối tác truyền thống, các công cụ ngoại giao cũng bị hạn chế và việc đa dạng hóa đối tác gặp nhiều khó khăn hơn.
Bên cạnh những thách thức do cuộc xung đột với Ukraine, có thể thấy, có những điểm hạn chế trong chính sách và thực lực triển khai đã và hiện vẫn tiếp tục kìm hãm nước Nga phát huy sức ảnh hưởng lớn hơn, có vị trí xứng “tầm” hơn tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đó là sự đơn điệu trong lĩnh vực và phương thức hợp tác. Hiện tại, các cuộc tiếp xúc cấp cao, hợp tác quân sự và xuất khẩu năng lượng vẫn là những trọng tâm chính trong chính sách ngoại giao của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Quy mô và chất lượng hợp tác kinh tế, thương mại còn nhiều hạn chế. Sáng kiến Đại Á - Âu còn mơ hồ và chưa có kế hoạch cụ thể, hợp tác giữa EAEU với các đối tác khu vực châu Á - Thái Bình Dương mới dừng lại ở số lượng hai FTA với Việt Nam và Singapore và một số dự án tiềm năng kết nối EAEU với BRI của Trung Quốc. Phần lớn sự tăng trưởng thương mại giữa vùng Viễn Đông của Nga và châu Á - Thái Bình Dương chủ yếu là nhờ sự gia tăng quan hệ thương mại với Trung Quốc. Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu dầu thô và là nhà đầu tư chính lớn nhất của Nga. Việc giữ được lợi ích trong quan hệ hợp tác Trung Quốc - Nga, đồng thời đa dạng hóa đối tác luôn là mục tiêu quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nga. Bối cảnh quốc tế và khu vực phức tạp hiện nay, nhất là những tác động từ cuộc xung đột tại Ukraine, khiến cho mục tiêu trên của Nga ngày càng khó thực hiện hơn.
Với xu thế phát triển đa dạng hiện nay của thế giới, nhất là dưới tác động của cuộc cách mạng công nghệ, cách mạng năng lượng mới, các nguồn lực vốn là “điểm mạnh” của nền ngoại giao truyền thống của Nga đang phải đối mặt với tình trạng suy giảm ảnh hưởng, như tiềm lực quân sự, đặc quyền trong các tổ chức quốc tế, đặc biệt là vị trí Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên, năng lượng. Ngoài lĩnh vực năng lượng, lĩnh vực ngoại giao của Nga tại châu Á - Thái Bình Dương còn thiếu những công cụ kinh tế mạnh. Điều này tạo ra sức ép buộc Nga phải đẩy nhanh việc mở rộng phương thức, công cụ ngoại giao trong tình hình mới, nhất là ngoại giao kỹ thuật số, ngoại giao xanh và tìm được chỗ đứng trong các ngành công nghiệp mới nổi, thúc đẩy việc ký kết các FTA theo hướng Đông và hội nhập vào chuỗi giá trị khu vực châu Á.
Trong bối cảnh không gian chiến lược phía Tây ngày càng bị thu hẹp, quan hệ Nga - Mỹ và phương Tây bế tắc, Nga chủ trương thúc đẩy mạnh để đạt được các đột phá về ngoại giao tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhằm mở rộng không gian địa - chiến lược, phạm vi phát triển và ảnh hưởng, đồng thời củng cố an ninh ở sườn phía Đông với mục tiêu kiềm chế Mỹ, cân bằng với Trung Quốc và ngăn chặn Nhật Bản. Trong hoạch định và triển khai quan hệ đối ngoại, Việt Nam cần chú ý đến bối cảnh địa - chính trị và nhu cầu này của Nga.
Xét về tương quan địa - chính trị, địa - chiến lược giữa các quốc gia trên thế giới, Nga là một cường quốc có vai trò, vị thế quốc tế và ảnh hưởng lớn, có sức mạnh, tiềm lực khoa học - công nghệ, quân sự vượt bậc và hàng đầu thế giới (sau Mỹ). Thời gian gần đây, vai trò của Nga trong cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương ngày càng rõ nét, tiềm lực công nghệ quân sự và vị thế của Nga vẫn có sức ảnh hưởng lớn đối với các nước trong khu vực dù trong bối cảnh cuộc xung đột Nga - Ukraine đã tạo ra những tác động, hạn chế nhất định. Đồng thời, mặc dù trải qua nhiều biến thiên của lịch sử và sự vận động phức tạp của bối cảnh thế giới, khu vực, Nga luôn đánh giá cao quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, coi Việt Nam là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Nga tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đây là nền tảng chính trị hết sức quan trọng để hai bên kiên trì hợp tác, vượt qua những khó khăn trước mắt, đưa quan hệ Việt Nam - Nga phát triển thực chất hơn; nâng cao hơn nữa tin cậy chính trị, gắn bó chiến lược và hiệu quả hợp tác trong các lĩnh vực để hai bên thực sự trở thành những đối tác quan trọng hàng đầu của nhau trong những lĩnh vực then chốt, như chính trị - ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và du lịch./.
-------------------------
(1) Xem: Phạm Đức Tâm: “Chính sách châu Á - Thái Bình Dương của Nga và đề xuất chính sách đối với Việt Nam trong quan hệ Việt - Nga”, Tạp chí điện tử Tạp chí Lý luận chính trị, ngày 5-3-2022, http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/4092-chinh-sach-chau-a-thai-binh-duong-cua-nga-va-de-xuat-chinh-sach-doi-voi-viet-nam-trong-quan-he-viet-nga.html
(2) Cuộc gặp đầu tiên được tổ chức vào tháng 6-2005 tại thành phố Vlavostok (Nga)
(3) Phát biểu của Tổng thống Nga V. Putin tại phiên họp toàn thể Diễn đàn Kinh tế phương Đông lần thứ 8 (tháng 9-2023)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm điện đàm với Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin  (09/08/2024)
Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì lễ đón chính thức và hội đàm với Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin  (20/06/2024)
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng với phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Bảy mươi lăm năm xây dựng và phát triển
- Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách
- Để dịch vụ logistics vùng Đông Nam Bộ phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
- Chính trị xanh tại châu Âu: Nhận thức phát triển
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Liên hợp quốc và những đóng góp của Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay