TCCSĐT - Trong quá trình đổi mới, nhận thức của Đảng ta về những nội dung cơ bản của nền kinh tế như chế độ sở hữu, thành phần kinh tế từng bước phát triển, theo đó, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân cũng từng bước được khẳng định như là một động lực quan trọng của nền kinh tế, tiến tới hình thành những quan điểm cơ bản về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quá trình nhận thức của Đảng ta về vai trò kinh tế tư nhân

Khái niệm kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Trước Đại hội VI của Đảng, do nhận thức máy móc, rập khuôn về mô hình chủ nghĩa xã hội nên chế độ sở hữu với nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp và nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau không được thừa nhận ở nước ta. Theo đó, chế độ sở hữu được quy về hai hình thức chính là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Các hình thức sở hữu toàn dân, tập thể và các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, còn các hình thức sở hữu và thành phần kinh tế khác như kinh tế tư nhân, cá thể, tiểu chủ,… là đối tượng cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải thu hẹp dần và tiến tới triệt tiêu, xóa bỏ.

Quan điểm nói trên đã được thay đổi một cách căn bản cùng với quá trình đổi mới, được bắt đầu từ Đại hội VI, khi Đảng ta xác định quá trình từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hóa từ nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa (1). Đây là điểm đột phá trong lý luận về mô hình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trước đó, trong các văn kiện của Đảng chỉ mới nói tới việc sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, thì nay đã khẳng định là chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Văn kiện Đại hội VI của Đảng xác định quan điểm đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân, cá thể phát triển trong những ngành nghề, lĩnh vực nhất định, coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn, điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành... (2). Đến Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật.

Các kỳ Đại hội tiếp theo, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện quan niệm về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, công nhận tồn tại nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu hỗn hợp và sở hữu nhà đầu tư nước ngoài…; nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (3). Các thành phần kinh tế này có các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng với sự đan xen, hỗn hợp của các loại hình sở hữu.

Cùng với quá trình đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong nền kinh tế ấy, như khẳng định của Đảng tại Đại hội X: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” (4). Quan điểm này cũng được Đảng ta khẳng định và cụ thể hóa thêm tại Đại hội XI: Phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo (5).

Đến Đại hội XII, quan niệm về kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mới, không phải chỉ là “một trong những động lực của nền kinh tế” mà đã là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Để kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế

Trong quá trình đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta ngày càng phát triển, có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế trên các phương diện như đóng góp vào tăng trưởng, tạo việc làm, sản xuất hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường. Nhiều doanh nghiệp tư nhân sản xuất - kinh doanh hiệu quả, khẳng định uy tín, thương hiệu ở thị trường trong nước, từng bước vươn lên thị trường khu vực và thế giới. Hiện nay nước ta có khoảng 500.000 doanh nghiệp tư nhân tạo ra hàng triệu việc làm, với 51% lực lượng lao động cả nước, đóng góp trên 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP).

Tuy nhiên, cả trong nhận thức xã hội cũng như trong thực tiễn, dường như có sự “chấp nhận miễn cưỡng” kinh tế tư nhân, mà không thấy ở đó một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển. Vì vậy, quá trình phát triển của kinh tế tư nhân còn rất khó khăn, chậm chạp, chưa khai thác tốt tiềm năng trong xã hội để phát triển.

Để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế như trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã đề ra, ngoài sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, kinh tế tư nhân cũng rất cần mở ra nhiều cơ hội, được cạnh tranh công bằng và nhận được nhiều sự hỗ trợ của Nhà nước.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường.

Doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp của bất kỳ thành phần kinh tế nào đều cần một môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, ổn định. Và để tạo ra được môi trường đó chính là vai trò của Nhà nước.

Môi trường kinh doanh được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau. Xét theo cấp độ tác động đến sản xuất và quản trị doanh nghiệp, có cấp độ nền kinh tế quốc dân và cấp độ ngành. Môi trường kinh doanh là những yếu tố tác động đến tất cả các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, được phân loại thành 3 nhóm: Môi trường vĩ mô, môi trường tác nghiệp và môi trường nội bộ. Môi trường vĩ mô bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài doanh nghiệp và môi trường nội bộ, tạo ra các cơ hội và tiềm ẩn các nguy cơ đối với doanh nghiệp. Đó là các yếu tố kinh tế, chính trị, chính sách của Nhà nước, các yếu tố về văn hóa, xã hội, điều kiện tự nhiên và trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ trong khu vực hoặc quốc gia. Môi trường tác nghiệp bao gồm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, định hướng cạnh tranh trong ngành như các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, người cung ứng nguyên vật liệu. Môi trường tác nghiệp cũng bao hàm các quy trình, thủ tục tương tác giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý, từ đăng ký kinh doanh, các loại giấy phép, nộp thuế, bảo hiểm,... Môi trường nội bộ bao gồm các yếu tố thuộc về các nguồn lực bên trong của doanh nghiệp như nguồn nhân lực, tài chính, trình độ công nghệ, kỹ thuật, khả năng nghiên cứu và phát triển.

Như vậy, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc xây dựng môi trường vĩ mô và môi trường tác nghiệp thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh, được cộng đồng các doanh nghiệp, các nhà tài trợ quốc tế ghi nhận.

Trước hết, về mặt thể chế, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thể hiện, một mặt ở số lượng rất lớn các văn bản pháp luật được ban hành, mặt khác, chất lượng các văn bản pháp luật được nâng cao, dần tiếp cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Có thể thấy rõ quyết tâm cải thiện môi trường kinh doanh qua việc ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (sửa đổi). Tại hai dự án Luật này, nhiều quy định đã được đổi mới, thay thế nhằm mục tiêu để doanh nghiệp có thể kinh doanh rẻ hơn và an toàn hơn, qua đó thu hút đầu tư và huy động mọi nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) tiếp tục thuận lợi hóa thủ tục đăng ký doanh nghiệp, bãi bỏ các yêu cầu về điều kiện kinh doanh tại thời điểm đăng ký thành lập; quy định doanh nghiệp được tự động giải thể sau 180 ngày kể từ ngày quyết định giải thể; tăng cường các biện pháp bảo vệ cổ đông công ty cổ phần; công nhận doanh nghiệp xã hội; quy định chặt chẽ hơn về quản trị trong doanh nghiệp nhà nước. Luật Đầu tư (sửa đổi) cũng đã có những điều chỉnh cơ bản hướng đến xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng với nhà đầu tư trong và ngoài nước. Luật được xây dựng với các quy định “thông thoáng” hơn về thủ tục đầu tư, bãi bỏ thủ tục chứng nhận đầu tư, tạo quy trình đơn giản hơn, rút ngắn thời gian cấp phép; xây dựng lại Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện nhằm quán triệt tinh thần “công dân được làm những gì pháp luật không cấm”. Những điểm thay đổi căn bản trên là cơ sở để xác lập hoàn chỉnh quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và công dân theo tinh thần của Hiến pháp 2013. Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn và các quy định về mức lương tối thiểu, thời gian làm việc,… cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác đã tạo được hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế tiếp tục được quan tâm, luôn là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương.

Cùng với xây dựng và hoàn thiện thể chế, công tác cải cách hành chính cũng được chú trọng đẩy mạnh, tập trung vào các thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhằm tiết kiệm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, qua đó, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế nói chung. Bộ Tài chính đã chủ động, tích cực rà soát, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đối với lĩnh vực Hải quan: Tiếp tục triển khai mở rộng Cơ chế một cửa Quốc gia và một cửa ASEAN, đến nay đã kết nối chính thức với 10/14 bộ. Ngoài thủ tục thông quan hàng hóa, 33 thủ tục hành chính của 10 bộ còn lại đã được thực hiện thông qua Cơ chế một cửa Quốc gia. Về cơ chế một cửa ASEAN, ngành Hải quan đã thành lập 9 địa điểm kiểm tra chuyên ngành tại 07 địa phương.

Đối với lĩnh vực thuế: Tổng số giờ thực hiện của thuế là 117 giờ (đã giảm được 420 giờ/năm); thời gian thực hiện thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu được giảm từ 21 ngày xuống còn 14 ngày đối với xuất khẩu, 13 ngày đối với nhập khẩu. Hệ thống khai thuế điện tử được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố. Tính đến ngày 19-8-2016, hệ thống khai thuế điện tử và nộp thuế điện tử đã có trên 550 nghìn doanh nghiệp tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử trên tổng số 552 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, đạt tỷ lệ 99,6%, số lượng hồ sơ khai thuế điện tử đã tiếp nhận đến nay là trên 33,4 triệu hồ sơ. Đối với dịch vụ nộp thuế điện tử, số lượng doanh nghiệp đã đăng ký tham gia sử dụng dịch vụ với cơ quan thuế là gần 530 nghìn doanh nghiệp trên 552 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, đạt tỷ lệ 95,7%.

Đã rút gọn quy trình nộp bảo hiểm xã hội, thành lập, giải thể doanh nghiệp và tiếp cận điện năng. Thời gian nộp bảo hiểm xã hội giảm được 100 giờ, từ 335 giờ/năm xuống còn 235 giờ/năm. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính về thành lập, tổ chức lại, giải thể doanh nghiệp giảm 50%, thời gian giải thể doanh nghiệp xuống còn 180 ngày. Thời gian tiếp cận điện năng của doanh nghiệp giảm từ 115 ngày xuống còn 70 ngày.

Bên cạnh những cải cách thể chế, thủ tục hành chính, việc xây dựng chính phủ điện tử, hạ tầng kỹ thuật nhằm minh bạch hóa thông tin trên thị trường cũng được Chính phủ chỉ đạo thực hiện rất tích cực. Trong những năm qua, sự ra đời của Hệ thống Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là những điểm sáng trong cải cách. Việc có một cơ sở dữ liệu đầy đủ về doanh nghiệp bước đầu trong quá trình công khai hóa, minh bạch hóa thông tin doanh nghiệp trên thị trường, góp phần đảm bảo thực thi quản lý nhà nước và tạo điều kiện cho cộng đồng tiếp cận thông tin một cách rẻ hơn, cập nhật hơn. Ngoài ra, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã xây dựng Cổng Thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia với các dịch vụ công cơ bản như: đăng ký doanh nghiệp trực tuyến, bố cáo điện tử, dịch vụ cung cấp thông tin đăng ký doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Cổng Thông tin còn là nơi đăng tải các tài liệu hỗ trợ về đăng ký doanh nghiệp; các văn bản pháp lý cập nhật trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh; hệ thống hóa danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện cho phép người dùng có thể tham khảo trực tiếp về ngành, nghề và các điều kiện kinh doanh. Cổng cũng cho phép người dùng tra cứu tên doanh nghiệp, tìm kiếm những thông tin cơ bản về doanh nghiệp; tham khảo những vướng mắc thường gặp trong đăng ký kinh doanh. Những tiện ích nêu trên hỗ trợ rất hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp.

Như vậy, có thể nói những cố gắng của Chính phủ Việt Nam thời gian qua là tương đối toàn diện, sâu sát và đã thu được những kết quả đáng kể. Những kết quả này cùng với sự nỗ lực từ cộng đồng doanh nghiệp sẽ tiếp tục tạo chuyển biến tích cực trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Cộng đồng doanh nghiệp sẽ luôn là động lực cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chỉ với một cộng đồng năng động, mới có cơ sở để xây dựng môi trường kinh doanh năng động, phát triển.

Để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28-4-2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016-2017, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các Luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh.

Quyết tâm của Chính phủ là rõ ràng, tuy nhiên, cần “xem bộ máy có thực sự chuyển động, có hướng về người dân và doanh nghiệp, có tạo nên sự phát triển hay không?”. Nói cách khác, cả bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương phải thực sự chuyển động theo tinh thần bộ máy phục vụ người dân và doanh nghiệp thì mới tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân phát huy vai trò là một động lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước./.

-----------------------------------------------------

Chú thích:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, http://dangcongsan.vn
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam, http://dangcongsan.vn
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, http://dangcongsan.vn
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, http://dangcongsan.vn
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, http://dangcongsan.vn