Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
TCCS - Bối cảnh mới trên thế giới và trong nước đang đặt ra cho công tác tư tưởng, lý luận những yêu cầu hết sức mới mẻ, chưa từng có, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải đổi mới nhận thức, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống các giải pháp đồng bộ, phù hợp để đáp ứng yêu cầu đặt ra. Giải quyết tốt yêu cầu về công tác tư tưởng, lý luận vẫn sẽ là một trong những điều kiện quyết định hàng đầu để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong thời gian tới.
Trong khi khẳng định hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và hợp tác quốc tế vẫn là xu hướng lớn, có tính chủ đạo, thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, dân tộc, vùng lãnh thổ cũng như toàn thể nhân loại tiến bộ trên thế giới, quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã trở thành động lực phát triển của nhân loại, trong đó có Việt Nam, Đại hội XII của Đảng cũng nhận định rằng, tình hình chính trị, an ninh, cục diện chung của thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp khó lường. Những vấn đề toàn cầu, như an ninh năng lượng, an ninh mạng, thiên tai, dịch bệnh, khủng bố ngày càng phức tạp. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế ngày càng nổi lên. Cạnh tranh thương mại, tranh đoạt nguồn tài nguyên giữa các quốc gia ngày càng gay gắt. Quan hệ quốc tế vừa bị chi phối bởi xu hướng ngày càng phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, các quốc gia, các khu vực trong các quan hệ toàn cầu về vốn, công nghệ, lao động và quá trình liên kết sản xuất, vừa trở nên mong manh, dễ đổ vỡ trước các nguy cơ hiện thực về khủng bố, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chiến tranh mạng, những xung đột văn hóa, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo và nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống khác.
Khu vực Đông Nam Á nói riêng và châu Á - Thái Bình Dương nói chung tiếp tục phát triển năng động, ngày càng có vai trò, vị trí quan trọng trên trường quốc tế, đồng thời cũng đang trở thành khu vực “nóng”, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định.
Ở trong nước, sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước được nâng cao. Đời sống của các tầng lớp nhân dân cả nước được cải thiện một bước cơ bản và quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật của đất nước được tăng cường. Những kết quả của quá trình thực hiện đường lối đổi mới trong thời gian vừa qua cho phép và đặt ra yêu cầu đất nước nhanh chóng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là những cơ sở căn bản để mở ra những thời cơ, vận hội rộng lớn cho sự phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra. Bốn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ, của dân tộc - tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng và “diễn biến hòa bình” - chưa thể nhanh chóng khắc phục. Đặc biệt, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, lãng phí, tệ quan liêu, cửa quyền, mất dân chủ còn diễn biến phức tạp, chưa thể giải quyết triệt để chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến giảm sút lòng tin của nhân dân. Trong bối cảnh đó, công tác tư tưởng, lý luận của Đảng càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.
Phương hướng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong điều kiện hội nhập quốc tế
Đại hội XII của Đảng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ về nội dung, phương thức và các bình diện của công tác tư tưởng, lý luận.
Vấn đề đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác tư tưởng, lý luận trước hết xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới: “Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”(1). Để thực hiện mục tiêu ấy trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhiều nhiệm vụ nặng nề đang đặt ra. Trước hết, vấn đề then chốt là xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đổi mới chính trị gắn liền với xây dựng, hoàn thiện mối quan hệ Đảng, Nhà nước với nhân dân, bảo đảm năng lực lãnh đạo đất nước, quản lý và tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới mô hình phát triển kinh tế từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu gắn với kinh tế tri thức. Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, đồng bộ, hợp lý các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo. Quản lý tốt phát triển xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu và những nguy cơ về an ninh phi truyền thống. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, chính sách an ninh - quốc phòng tích cực nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền lợi của dân tộc, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc của nhân dân.
Mặt khác, yêu cầu đổi mới xuất phát từ thực tế môi trường xã hội với những thay đổi to lớn đã diễn ra trong thời gian qua. Tiến trình hội nhập quốc tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin đã tạo ra một diện mạo mới về thông tin cho xã hội. Các nguồn thông tin được quản lý, định hướng chủ động, như báo chí, phát thanh, truyền hình không còn chiếm vị thế độc quyền cung ứng thông tin, chưa làm tốt vai trò chủ đạo trong định hướng dư luận xã hội. Các nguồn thông tin trực tiếp được chuyển tải trên môi trường mạng xã hội ngày càng có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ vào quá trình hình thành nhận thức, thái độ của nhân dân đối với các vấn đề, sự kiện chính trị - xã hội. Người dân có điều kiện thuận lợi, phong phú hơn trong việc tiếp nhận dòng thông tin vô cùng đa dạng thông qua mạng in-tơ-net và các sản phẩm thông tin liên lạc cầm tay thông minh. Một dung lượng lớn thông tin và các sản phẩm văn hóa từ nước ngoài hằng ngày, hằng giờ tác động trực tiếp đến người dân, nhất là giới trẻ, không thông qua bất cứ một sự hạn chế nào và hầu như chưa có sự hướng dẫn tiếp nhận kịp thời, đúng đắn và hiệu quả.
Yêu cầu đổi mới cũng xuất phát từ chính những thành tựu và hạn chế, khuyết điểm của công tác tư tưởng, lý luận trong thời gian vừa qua. Cùng với tiến trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng, quan tâm đến công tác tư tưởng, lý luận. Công tác này đã có những chuyển biến tích cực, góp phần tạo sự đồng thuận xã hội, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đấu tranh chống lại các âm mưu chống phá của các thế lực thù địch. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn đã góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề mới nảy sinh, củng cố hệ thống lý luận về con đường và bước đi của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, góp phần hình thành cơ sở khoa học, thực tiễn cho quá trình hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Tuy nhiên, những kết quả của công tác tư tưởng, lý luận vẫn còn có khoảng cách không nhỏ so với yêu cầu đặt ra. Nhiều vấn đề từ thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới chưa được làm rõ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa phục vụ tốt yêu cầu hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Việc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chưa thật chủ động, thiếu sắc bén. Việc giáo dục, bồi dưỡng chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng cho cán bộ, đảng viên chậm đổi mới, hiệu quả thấp. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ có phần giảm sút. Đặc biệt, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự giảm sút về ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên, sự xuất hiện của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong xã hội có phần trách nhiệm không nhỏ của công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng.
Từ thực tế ấy, việc đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác tư tưởng, lý luận được Đại hội XII của Đảng chỉ ra gồm các nội dung sau:
Thứ nhất, “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng phục vụ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, phù hợp với từng giai đoạn, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; đẩy mạnh tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng đối tượng theo hướng cụ thể, thiết thực, hiệu quả”(2).
Mục đích đặt ra đối với công tác tư tưởng là tạo sự đồng thuận trong xã hội trên cơ sở tuyên truyền, giáo dục về nền tảng tư tưởng của chế độ, về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hướng dẫn nhân dân nhận thức đúng đắn về các vấn đề, sự kiện thời sự quan trọng có ý nghĩa đối với lợi ích quốc gia, dân tộc và cuộc sống của người dân. Để đạt được mục đích đó, trước hết phải thay đổi nhận thức về vai trò, vị trí và yêu cầu đổi mới công tác tư tưởng phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của giai đoạn mới. Trên cơ sở nhận thức ấy, cần đổi mới phương pháp, cách thức tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân dân, trong đó chú ý đến thế hệ trẻ. Đấu tranh chống những tư tưởng sai trái, những thủ đoạn phá hoại để bảo vệ lý tưởng cách mạng, bảo vệ con đường xã hội chủ nghĩa, không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ. Tăng cường thông tin, cổ vũ các nhân tố mới, các gương tốt, điển hình tiên tiến, phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần sáng tạo, ý thức trách nhiệm công dân đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Huy động và sử dụng hợp lý, hiệu quả mọi loại hình phương tiện, mọi lực lượng trong xã hội tham gia thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng. Đặc biệt quan tâm đến mạng xã hội, các loại hình báo chí, truyền thông hiện đại, đồng thời tận dụng khả năng tích cực của các loại hình, phương thức truyền thông truyền thống. Gắn việc thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh xã hội và công tác đối ngoại. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 3 khóa XII (ngày 7-7-2016), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa đã nhấn mạnh nhiệm vụ công tác tư tưởng mà toàn Đảng cần quan tâm: “Chú trọng công tác tư tưởng, tuyên truyền, báo chí, thông tin, tạo sự đồng thuận trong xã hội; kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, phản bác những luận điệu sai trái”.
Thứ hai, “Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch”(3).
Giáo dục văn hóa, đạo đức, xây dựng lối sống tích cực, có trách nhiệm trong nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ căn bản, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng trong điều kiện hiện nay. Đó cũng chính là nhiệm vụ góp phần xây dựng con người mới, xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ năng lực, điều kiện lãnh đạo nhân dân, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Yêu cầu đặt ra là nghiên cứu xây dựng các chuẩn mực văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam hiện đại nói chung và của cán bộ, đảng viên nói riêng, truyền bá, giáo dục để những chuẩn mực đó đi vào cuộc sống, trở thành lối sống của mỗi người dân, mỗi cán bộ, đảng viên. Các phương tiện công tác tư tưởng đồng thời trở thành môi trường giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, mất dân chủ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và trong nhân dân.
Đồng thời, đề cao cảnh giác, phát huy tính chiến đấu, kịp thời phát hiện, phản bác các âm mưu, luận điệu của các thế lực thù địch hòng xuyên tạc, vu cáo, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Thường xuyên cảnh giác, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ.
Thứ ba, “Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đổi mới mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu lý luận của Đảng; đầu tư thích đáng cho việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ lý luận, nhất là những chuyên gia đầu ngành; nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, đáp ứng yêu cầu mới”(4).
Chất lượng, hiệu quả công tác lý luận được xem xét, đánh giá trước hết căn cứ vào chất lượng, hiệu quả của việc xây dựng, cung cấp các cơ sở khoa học và thực tiễn phục vụ cho công tác hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong nhiều kỳ đại hội Đảng gần đây đều có chung một nhận xét “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”(5). Từ thực tế ấy, vấn đề đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lý luận của Đảng càng trở nên bức thiết.
Công tác lý luận của Đảng cần được đổi mới trên cả hai phương diện. Một mặt, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu chọn lọc để vận dụng những thành tựu, bài học kinh nghiệm của nhân loại vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Mặt khác, tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới, rút ra những vấn đề, bài học tích cực, phát hiện những sai lầm, hạn chế trong chính sách và tổ chức thực hiện chính sách và đề xuất giải pháp khắc phục.
Nội dung đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận trong điều kiện hiện nay trước hết là làm sáng tỏ nhận thức và quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, trong đó có yêu cầu xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc giải quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh tính quy luật của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa đổi mới với ổn định, phát triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân thủ quy luật thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất với hoàn thiện quan hệ sản xuất; giữa nhà nước với thị trường; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc; giữa độc lập, tự chủ với hội nhập quốc tế; giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân...
Công tác lý luận cũng được triển khai trên những nội dung quan trọng, như phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; phát triển văn hóa, con người Việt Nam và môi trường sống an toàn, hạnh phúc của nhân dân; bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, thời đại và thế giới đương đại. Đó là những vấn đề quan trọng làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách đối nội, đối ngoại và quốc phòng, an ninh của Nhà nước.
Thứ tư, “Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Thực hiện nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp Trung ương. Tiếp tục đổi mới hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng nâng cao chất lượng, chú trọng tính hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng”(6).
Giáo dục lý luận chính trị nhằm mục đích trang bị cho nhân dân những hiểu biết cơ bản về chính trị, tư tưởng, xây dựng nền tảng tri thức cho sự đồng thuận xã hội, cho việc thống nhất nhận thức về con đường và mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước. Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc đổi mới nội dung, phương pháp và nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị là yêu cầu khách quan, cần thiết.
Trước hết là đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống các trường chính trị, trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, khắc phục sự lạc hậu về nội dung, phương pháp dạy và học, bảo đảm hiệu quả, phù hợp với từng đối tượng và gắn với thực tiễn đất nước. Chú ý giáo dục lòng yêu nước, trách nhiệm công dân, niềm tự hào dân tộc và kỹ năng sống cho thế hệ trẻ để mỗi chủ nhân tương lai của đất nước có lý tưởng sống cao đẹp, vững vàng và thành công trong môi trường sống hiện đại. Tăng cường giáo dục thường xuyên kết hợp với kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo đức, trách nhiệm công vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền. Đổi mới việc học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo hướng gắn với trách nhiệm cấp ủy và cả hệ thống chính trị, có chương trình hành động và kiểm tra, đánh giá chặt chẽ các kết quả thực hiện.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ công tác tư tưởng, lý luận của Đảng trong thời kỳ mới
Đối với công tác tư tưởng:
- Đổi mới nhận thức về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận, thực sự coi công tác tư tưởng, lý luận, là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng. Trên cơ sở đó xác định công tác tư tưởng là trách nhiệm của toàn Đảng, Nhà nước, của từng cấp ủy, cơ quan chính quyền, từng cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực của công tác tư tưởng thông qua việc bố trí cán bộ, xây dựng các chế độ, chính sách, cơ chế vận hành và sự chỉ đạo, định hướng về nội dung thông tin, giáo dục. Mỗi cấp ủy, đặc biệt là bí thư cấp ủy phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về công tác tư tưởng tại cơ quan, đơn vị, địa phương mình. Phải có cơ chế tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, lắng nghe ý kiến, tâm tư của nhân dân và giải trình trước nhân dân về các vấn đề, nhất là về những bức xúc của nhân dân. Công tác tư tưởng phải được gắn kết chặt chẽ với công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra để hỗ trợ, hợp tác, cùng nâng cao hiệu quả và đánh giá, sử dụng cán bộ hợp lý.
- Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, không chỉ có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, mà còn phải nêu gương về đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gắn bó với nhân dân, được nhân dân tin yêu. Nghiên cứu, tổng kết và truyền bá rộng rãi hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Triển khai đồng bộ cuộc đấu tranh phản bác các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Mở rộng phạm vi và tăng cường hiệu quả thông tin đối ngoại.
- Tăng cường đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và các các phương tiện kỹ thuật cho công tác tư tưởng theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng.
Đối với công tác lý luận:
- Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của Việt Nam. Nghiên cứu làm sáng tỏ nhận thức và những vấn đề mới nảy sinh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân...
- Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
- Nghiên cứu sự phát triển văn hóa, vấn đề bồi dưỡng thế hệ trẻ, xây dựng con người Việt Nam trong điều kiện mới, thực hành dân chủ trong hoạt động lý luận.
- Nghiên cứu các vấn đề cơ bản của thời đại, các kinh nghiệm thành công và thành tựu khoa học về phát triển của nhân loại. Nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn phục vụ cho việc hoạch định chính sách về bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn hòa bình, an ninh, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.
- Đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục chính trị, học tập nghị quyết của Đảng. Đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chính trị của hệ thống các trường Đảng, các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp theo hướng cơ bản, hiệu quả và hiện đại. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chiến lược.
- Tạo môi trường dân chủ, khuyến khích tìm tòi sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu lý luận. Đổi mới mô hình, phương thức hoạt động của các cơ quan nghiên cứu lý luận, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đáp ứng yêu cầu mới.
- Kịp thời đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, những âm mưu xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ.
Đối với công tác báo chí:
- Tăng cường lãnh đạo, quản lý, phát triển hệ thống báo chí - truyền thông nhằm phát huy tốt nhất vai trò của báo chí - truyền thông trong việc thông tin, tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ công tác tư tưởng, hạn chế những tác động tiêu cực. Coi trọng việc phát hiện biểu dương các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, đồng thời tích cực đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội. Không ngừng nâng cao chất lượng tư tưởng, tính hấp dẫn, tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hệ thống báo chí.
- Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí. Coi trọng công tác xây dựng Đảng, đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong các cơ quan báo chí. Làm tốt công tác định hướng thông tin, kịp thời cung cấp tài liệu cho báo chí, nhất là đối với những vấn đề, sự kiện quan trọng, nhạy cảm. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống báo chí - truyền thông đại chúng, tránh trùng lặp, chồng chéo về chức năng.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực báo chí - truyền thông, làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, các hội nghề nghiệp và từng cơ quan báo chí - truyền thông. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy ước về đạo đức nghề nghiệp và giáo dục cán bộ tự giác thực hiện.
- Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và những hiểu biết về quan hệ quốc tế cho đội ngũ những người làm báo. Thường xuyên rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định, quy trình về bổ nhiệm, miễn nhiệm, thi đua - khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ lãnh đạo các cơ quan báo chí. Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ có năng lực, đủ phẩm chất cho hệ thống báo chí. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, nguồn lực và cơ chế để các cơ quan báo chí chủ lực nâng cao chất lượng, làm tốt công tác định hướng dư luận xã hội.
- Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, làm tốt công tác quảng bá hình ảnh đất nước, các giá trị văn hóa đặc trưng của đất nước và con người Việt Nam đến với nhân dân và bạn bè trên thế giới. Làm tốt công tác hướng dẫn nhân dân trong việc tiếp thu những giá trị văn hóa tích cực, tiến bộ của nhân loại; cảnh giác, ngăn chặn sự du nhập những sản phẩm văn hóa độc hại, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc và các giá trị nhân văn, tiến bộ của nhân loại./.
---------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 76
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 200
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 200 - 201
(4), (5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 201, 193, 201 - 202
Chính phủ Anh công bố dự luật về khởi động tiến trình Brexit  (26/01/2017)
Kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu và chúc Tết chiến sỹ Lữ đoàn 205  (26/01/2017)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dâng hương tưởng niệm Bác Hồ  (26/01/2017)
Chủ tịch nước chúc Tết các trí thức tiêu biểu của Thủ đô  (26/01/2017)
Các chỉ đạo mới của Thủ tướng Chính phủ  (26/01/2017)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay