Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc

PHẠM THỊ KIM CƯƠNG
Học viện Dân tộc, Ủy ban Dân tộc
11:31, ngày 01-06-2021

TCCS - Cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số có vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị ở vùng dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc; là những hạt nhân tiêu biểu trong việc phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là người trực tiếp góp phần tổ chức đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Vì vậy, để xây dựng chính quyền cấp cơ sở vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cần quan tâm thực hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc đủ về số lượng, cao về chất lượng, năng động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số là người trực tiếp góp phần tổ chức đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc_Ảnh: TTXVN

Thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vị trí của cấp xã, người cho rằng: “Cấp xã là gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”(1). Với vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là người dân tộc thiểu số (DTTS), trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, chú trọng phát triển đội ngũ này. Quyết định số 122/2003-QĐ-TTg, ngày 12-6-2003, của Thủ tướng Chính phủ, “Về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc” nêu rõ: “Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ cơ sở là người dân tộc thiểu số; sử dụng có hiệu quả số học sinh, sinh viên đã được đào tạo từ các trường, số thanh niên sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự là con em đồng bào dân tộc thiểu số làm nguồn cán bộ bổ sung cho cơ sở… Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán, chủ chốt, nhất là hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân xã, xã đội, công an xã”(2). Các tỉnh khu vực Tây Bắc ban hành và triển khai thực hiện nhiều chính sách nhằm xây dựng đội ngũ CBCC là người DTTS bằng các đề án, kế hoạch cụ thể.

Nhờ vậy, thời gian qua, đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc tăng lên cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm sự lãnh đạo, điều hành, quản lý, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội. Việc tăng lên về số lượng và chất lượng của đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc là do nhiều tỉnh trong khu vực đã triển khai các chính sách ưu đãi để thu hút cán bộ và sinh viên chính quy tốt nghiệp loại khá, giỏi về công tác tại các xã. Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị cho đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS cũng được các cấp ủy, chính quyền quan tâm, coi trọng. Theo số liệu thống kê, đến tháng 7-2019, “toàn khu vực hiện có hơn 50% số cán bộ xã, 77% số công chức xã đạt chuẩn về trình độ theo quy định; 44% số người hoạt động không chuyên trách ở cơ sở đã qua đào tạo, bồi dưỡng”(3).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, đến nay, nhiều địa phương ở Tây Bắc vẫn chưa cân đối được nguồn cán bộ tại chỗ, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Vì thế, vẫn còn có sự chênh lệch giữa các dân tộc, thậm chí ở một số tỉnh còn có khoảng cách xa. “Tại các xã có đông đồng bào DTTS sinh sống, số cán bộ là người DTTS mới đạt gần 40% trong tổng số cán bộ, công chức, viên chức của địa phương; tỷ lệ cán bộ chủ chốt là người DTTS còn rất thấp”(4).

Những hạn chế, yếu kém nêu trên trong việc phát triển đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc được xác định có nguyên nhân khách quan và chủ quan chủ yếu sau:  

Thứ nhất, Tây Bắc được xem là khu vực có cấu trúc địa chất phức tạp, phần lớn lãnh thổ của vùng là núi cao, dốc lớn, có nhiều đỉnh cao từ 1.090m - 3.080m, xen kẽ các dãy núi này là các sông, suối, thung lũng hẹp làm cho địa hình bị chia cắt manh mún. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông của vùng chưa đồng bộ, nhất là giao thông nông thôn. Hiện nay, vẫn còn nhiều địa phương chưa có đường nhựa hay đường bê-tông đến các trung tâm xã và thôn, bản, nên việc di chuyển vẫn khó khăn, nhất là vào mùa mưa… Do những đặc điểm về địa lý, địa hình và mạng lưới giao thông chưa đồng bộ, nên kết cấu hạ tầng hiện có ở cả vùng Tây Bắc hết sức yếu kém so với các vùng trong toàn quốc. Đây được xem là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực con người, trong đó có phát triển đội ngũ CBCC là người DTTS, nhất là cấp cơ sở.

Thứ hai, là vùng có nhiều dân tộc cùng chung sống, đa ngôn ngữ, nên Tây Bắc là khu vực có bản sắc văn hóa phong phú, đa dạng nhất trong toàn quốc; văn hóa các dân tộc Tây Bắc luôn giữ những bản sắc riêng khó hòa lẫn. Bên cạnh những nét văn hóa truyền thống đa dạng và mang nhiều bản sắc, phong tục, tập quán truyền thống của các dân tộc khu vực Tây Bắc cũng có những nét đặc thù so với các dân tộc ở các vùng khác của cả nước. Vì vậy, dẫn đến tình trạng “vẫn còn một số cán bộ, công chức người dân tộc thiểu số ở cấp xã còn nặng tư tưởng dòng tộc, ảnh hưởng của nhiều phong tục, tập quán lạc hậu”(5).

Thứ ba, hiện nay, ngân sách các tỉnh khu vực Tây Bắc đều phụ thuộc vào ngân sách phân bổ hằng năm của Nhà nước, chưa thể tự cân đối. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, hiệu quả thấp, sức cạnh tranh còn hạn chế và chưa thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư. Một số tỉnh như Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Hòa Bình sức hút đầu tư kém do một phần địa hình phức tạp, giao thông cách trở. Những hạn chế về kết cấu hạ tầng, sự khác biệt về khí hậu, thổ nhưỡng, dẫn đến tỷ trọng đầu tư trong nước và nước ngoài còn rất thấp... Mặc dù có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế, như du lịch, dịch vụ và thương mại, khai khoáng, thủy điện..., nhưng kinh tế khu vực Tây Bắc chủ yếu dựa vào 2 lĩnh vực là nông nghiệp và lâm nghiệp. Kinh tế công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ cả về quy mô và doanh thu, chủ yếu là các ngành khai khoáng, thủy điện...

Hiện nay, Tây Bắc vẫn là khu vực có kinh tế chậm phát triển so với cả nước, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Năm 2019, “tỷ lệ hộ nghèo vùng miền núi Tây Bắc là 24,23% (gấp 4,6 lần bình quân cả nước)”(6). Do điều kiện kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, cùng với đặc điểm về xã hội mang nhiều nét đặc trưng nên đây có thể được xem là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến việc phát triển đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS của các tỉnh ở khu vực Tây Bắc.

Thứ tư, mặc dù đầu tư về hệ thống trường, lớp và số lượng học sinh theo học của vùng Tây Bắc có gia tăng qua các năm, song hầu hết tập trung tại bậc tiểu học, số học sinh theo học trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa cao. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông của các tỉnh Tây Bắc thuộc nhóm thấp nhất trong cả nước và có xu hướng giảm. Ở các cấp học cao hơn, như đại học, cao đẳng, trung cấp và dạy nghề, số lượng sinh viên theo học tại vùng Tây Bắc là rất ít và hầu hết học tại các trường công lập. Đây là thực trạng chung của các vùng khó khăn và có sự cách trở về địa lý như Tây Bắc. Bên cạnh hệ thống các trường phổ thông, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục của Tây Bắc cũng đang phát triển, như: Đại học Tây Bắc, Cao đẳng Sơn La, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Hòa Bình… Theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, hiện nay, “toàn vùng có 404 cơ sở dạy nghề, gồm 14 trường cao đẳng nghề, 24 trường trung cấp nghề, 173 trung tâm dạy nghề và 183 cơ sở khác có nhiệm vụ dạy nghề”(7).

Tỷ lệ người dân không biết chữ còn cao. “Nếu như, tỷ lệ dân số biết chữ của cả nước là 94,8%, thì tỷ lệ này ở vùng Tây Bắc chưa đạt được mức 90%. Hoà Bình có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết lớn hơn mức trung bình cả nước, các tỉnh còn lại tỷ lệ này đều thấp. Trong đó, Lai Châu có tỷ lệ người biết chữ thuộc nhóm thấp nhất cả nước”(8).

Thứ năm, thực hiện chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, trong những năm qua, các tỉnh khu vực Tây Bắc đã tổ chức nhiều lớp đại học, cao đẳng, trung cấp tại địa bàn, tạo điều kiện cho cán bộ vừa học, vừa làm. Việc phát triển đa dạng các loại hình đào tạo (chính quy, tại chức…) đã giúp cho đội ngũ cán bộ DTTS ở cơ sở nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cường năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu cơ bản trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tại chỗ, các địa phương đã triển khai các chính sách ưu đãi nhằm thu hút sinh viên chính quy tốt nghiệp loại khá, giỏi ở các trường đại học về công tác tại các xã, nhằm tăng cường nhân lực được đào tạo cơ bản cho cấp ủy, chính quyền cấp xã, đồng thời tạo nguồn cán bộ kế cận, như tỉnh Yên Bái “đã ký hợp đồng với 26 sinh viên đã tốt nghiệp đại học là con em đồng bào DTTS về công tác tại các xã, phường; hỗ trợ 30% mức lương hiện hưởng đối với cán bộ các phòng, ban ở thành phố được điều động làm cán bộ ở phường và cán bộ phường được điều động sang làm cán bộ xã, hỗ trợ 40% mức lương đối với cán bộ thành phố điều động về xã, cán bộ phường được điều động sang làm cán bộ xã được hỗ trợ 30%”(9). Vì vậy, đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS trong tỉnh ngày càng tăng lên và có nhiều các thành phần các dân tộc như: người Mông, Dao, Tày, Nùng…; nhiều người đã được bổ nhiệm giữ các chức danh chủ chốt như chủ tịch, phó chủ tịch xã.

Tuy nhiên, trong công tác tạo nguồn, đào tạo, sử dụng đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS tại các tỉnh khu vực Tây Bắc vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Số lượng cán bộ là người DTTS có trình độ đại học, trên đại học còn thấp; tỷ lệ chưa được đào tạo, bồi dưỡng khá cao. Ở một số tỉnh như Điện Biên, “đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở, đến nay vẫn còn nhiều chức danh chưa đạt chuẩn theo quy định, trong đó, chưa đạt chuẩn học vấn trung học phổ thông còn 22,5%. Ở tỉnh Lai Châu, đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số độ tuổi dưới 40 chiếm 77,64%; trình độ học vấn trung học phổ thông 57,76%, trung học cơ sở 33,39%, tiểu học 8,83%; trình độ chuyên môn trên đại học 0,03%, đại học 7,48%, cao đẳng 12,68%, trung cấp 50,22%, sơ cấp 4,69%, chưa qua đào tạo 24,9%; trình độ lý luận chính trị: cử nhân, cao cấp lý luận chính trị 1,92%, trung cấp 6,69%, sơ cấp 11,29%, chưa qua đào tạo 64,47%”(10).

Can bộ xã hướng dẫn cử tri về bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 tại khu vực bỏ phiếu số 7, xã Sùng Phài, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Một số giải pháp nhằm phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc thời gian tới

Phát huy những kết quả đạt được, từng bước khắc phục những hạn chế, yếu kém, trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS ở khu vực Tây Bắc:

Một là, triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ cấp xã người DTTS khu vực Tây Bắc. Theo đó, các tỉnh khu vực Tây Bắc cần triển khai hiệu quả Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới”; Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-2016, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới”. Theo đó, các địa phương cần xây dựng các kế hoạch, chương trình cụ thể như: Chương trình đào tạo mới, đào tạo lại, bồi dưỡng để củng cố, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, các kỹ năng làm việc cho đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS. Đẩy mạnh chương trình bồi dưỡng kiến thức dân tộc theo Quyết định 771/QĐ-TTg, ngày 26-6-2018, của Thủ tướng Chính phủ, “Phê duyệt Đề án “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018 - 2025””.

Hai là, hoàn thiện cơ chế về chính sách tuyển dụng, sử dụng và quản lý đối với đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc. Trong đó, các địa phương của khu vực cần tiếp tục triển khai thực hiện Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thực hiện đúng, đầy đủ, có hiệu quả các chế độ, chính sách ưu tiên đối với CBCC cấp xã là người DTTS. Nghiên cứu xây dựng, sửa đổi, bổ sung chính sách có tính đặc thù trong tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý đối với đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS. Nghiên cứu, quy định chế độ, chính sách thu hút nhân tài, trọng dụng, đãi ngộ phù hợp đối với người có tài năng là con em đồng bào các dân tộc tình nguyện về công tác tại các xã, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa…

Ba là, phát triển mạnh mẽ về số lượng, nâng cao về chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc. Theo đó, các địa phương cần có kế hoạch, lộ trình nhằm phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS theo đúng tinh thần “có tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số tham gia vào các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp xã tối thiểu là 10% đến 50% trên tổng biên chế được giao”(11), tùy thuộc vào tỷ lệ người DTTS trên tổng dân số của xã… Đặc biệt là tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã một số dân tộc có tỷ lệ thấp so với dân số như: Mông, Dao, Khơ Mú, Si La…

Bốn là, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung chính sách liên quan đến cử tuyển, đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực. Để thực hiện tốt công tác này, cần tiếp tục phát triển hệ thống giáo dục với tính liên tục, liên thông giữa các bậc học. Thực hiện quy hoạch, đào tạo, phân luồng, hướng nghiệp học sinh DTTS sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở và các cấp học khác để tạo nguồn cán bộ gắn với nhu cầu sử dụng của địa phương, đặc biệt chú trọng các vị trí cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở những vùng có đông đồng bào DTTS.

Điều chỉnh, quy định cụ thể chỉ tiêu tuyển sinh người DTTS của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp để tạo nguồn cán bộ và phát triển nguồn nhân lực DTTS. Tạo sự thống nhất giữa cơ quan có thẩm quyền với cơ quan có trách nhiệm đào tạo xem xét, tuyển dụng sau khi sinh viên tốt nghiệp ra trường bảo đảm việc triển khai có hiệu quả. Lồng ghép giữa đào tạo văn hóa với đào tạo kiến thức chuyên biệt quản lý, lãnh đạo đối với các đối tượng dự nguồn CBCC cấp xã là người DTTS. Bên cạnh đó, cần tăng chỉ tiêu và mức hỗ trợ cho các trường dân tộc nội trú, đồng thời cho phép cử tuyển học sinh nghèo DTTS ở cả vùng II, vùng I (vì vùng III rất ít hoặc không có con em đồng bào tốt nghiệp phổ thông trung học).

Năm là, hoàn thiện các chính sách về thu hút, trọng dụng, tạo nguồn đối với đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS. Cần điều chỉnh và ban hành kịp thời các chính sách về chế độ đãi ngộ cho phù hợp đối với đội ngũ CBCC cấp xã là người DTTS, nhất là ở các địa bàn thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Bởi, cán bộ người dân tộc thiểu số là người hiểu dân tộc mình sâu sắc nhất, từ đó có thể giúp phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiềm năng của quê hương mình. Bên cạnh đó, cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá, tổng kết, kịp thời đề ra các giải pháp để không ngừng nâng cao trình độ, năng lực cho CBCC cấp xã là người DTTS khu vực Tây Bắc nhằm phù hợp với từng địa phương cũng như từng dân tộc.

Bên cạnh đó, các địa phương của khu vực cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đồng thời tiến hành xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhất là giao thông nông thôn. Từng bước xóa bỏ các thiết chế văn hóa lạc hậu đang tồn tại của các DTTS./.

------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 460
(2) Đề án “Mô hình chi bộ cụm bản gắn với phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng bản, cụm bản phát triển toàn diện; tổ chức điều động, luân chuyển cán bộ trưởng, phó phòng các sở, ngành tỉnh và huyện tăng cường cán bộ cho cấp xã” của Tỉnh ủy Sơn La; Đề án “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên giai đoạn 2011 - 2015” của Tỉnh ủy Lai Châu; Đề án “Quy hoạch, đào tạo cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ chuyên môn và kỹ thuật tỉnh Lào Cai giai đoạn 2011 - 2015” của Tỉnh ủy Lào Cai; Quyết định số 537/QĐ-UBND, ngày 26-6-2012, của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên, “Về việc phê duyệt đề án phát triển nguồn nhân lực tỉnh Điện Biên đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 23/NQ-HĐND, ngày 12-12-2011, của Hội đồng nhân dân tỉnh Sơn La, về “Phát triển nguồn nhân lực tỉnh Sơn La giai đoạn 2011 - 2020”
(3) (4) (9) (10) Giang Quỳnh Hương: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc”, http://www.xaydungdang.org.vn/Home/MagazineStory.aspx?mid=130&mzid=1386&ID=3142, ngày 30-7-2019
(5) Báo cáo số 840/BC-HĐDT13, ngày 5-11-2014 của Hội đồng Dân tộc: “Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật trong đào tạo, sử dụng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số đến năm 2013”, Hà Nội
(6) Ban chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 24-NQ/TW: Báo cáo số 58/BC-BCĐTW, ngày 4-9-2019 về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, Hà Nội, 2019
(7) Lê Anh Tuấn: “Thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực du lịch vùng Tây Bắc”, http://daotao-vhttdl.vn/articledetail.aspx?articleid=425&sitepageid=633, ngày 18-1-2017
(8) Nguyễn Thị Hoàng Lý: “Thực trạng nguồn nhân lực Tây Bắc và những vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền vững” , https://tcnn.vn, ngày 19-2-2016 
(11) Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14-3-2016, của Thủ tướng Chính phủ, về “Phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới”