Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới
TCCS - Phê bình văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng nhưng cũng rất phức tạp và nhạy cảm trong đời sống văn hóa, có tác động không nhỏ tới đời sống tinh thần của xã hội. Vì vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phê bình văn học, nghệ thuật là yêu cầu bức thiết đang được đặt ra đối với nền văn học và văn hóa nước ta.
1- Hiện nay, có một số quan niệm và nhận thức khác nhau về vai trò, bản chất, chức năng, đối tượng của phê bình văn học, nghệ thuật nhưng qua các cuộc hội nghị, hội thảo về phê bình văn học, nghệ thuật từ đầu năm 2000 đến nay, và nhất là khi Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” (gọi tắt là Nghị quyết 23) được ban hành, giới nghiên cứu, lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam cơ bản coi phê bình văn nghệ chủ yếu là sự đánh giá, thẩm định, lý giải và phán đoán các tác phẩm, sự kiện, hiện tượng và tác giả văn học, nghệ thuật vừa xuất hiện trong đời sống văn nghệ cùng thời; đánh giá, thẩm định, lý giải các luồng tiếp nhận khác nhau của độc giả. Phê bình văn học, nghệ thuật có thể mở rộng sang việc đánh giá những tác phẩm, tác giả của quá khứ khi có nhu cầu đánh giá lại các tác phẩm, tác giả đó. Song đối tượng chủ yếu của phê bình văn nghệ bao giờ cũng là những tác phẩm, tác giả, những hiện tượng sự kiện văn học, nghệ thuật cùng thời. Đúng như Bê-lin-xki từ thế kỷ XIX đã khẳng định, phê bình văn học là “mỹ học vận động”; chức năng, nhiệm vụ ưu tiên của phê bình văn học, nghệ thuật là kịp thời đánh giá cái đang diễn ra, cái vừa xuất hiện, cái động trong sự phát triển của văn nghệ từ hiện tại đến tương lai.
Phê bình văn học, nghệ thuật như một hoạt động tác động vào quá trình văn học, nghệ thuật. Với bản chất chức năng đối tượng nêu trên, phê bình văn nghệ có vị trí, vai trò quan trọng trong quá trình phát triển văn học, nghệ thuật. Phê bình văn học, nghệ thuật là một bộ phận hữu cơ của đời sống văn nghệ, giữ vai trò vừa đồng hành với sáng tác để thấu hiểu và đồng cảm, vừa là nhân tố đánh giá, phán đoán và dự báo, góp phần điều chỉnh và định hướng cho sáng tác, cho quá trình phát triển của văn học, nghệ thuật theo quy luật của bản thân nó và theo đòi hỏi khách quan của đời sống văn học, nghệ thuật, đời sống tinh thần của xã hội. Phê bình văn học, nghệ thuật không chỉ đánh giá, điều chỉnh, định hướng cho sáng tác văn nghệ mà còn đi sâu nghiên cứu các mối liên hệ bên trong và bên ngoài của sáng tác văn học, nghệ thuật với đời sống xã hội. Từ quan niệm này, Bê-lin-xki xem phê bình văn học, nghệ thuật là “ý thức triết học” của văn học, nghệ thuật. Phê bình văn nghệ không chỉ là một bộ phận của dư luận xã hội mà còn tác động đến công chúng, đến xã hội.
Phê bình văn học, nghệ thuật không chỉ là tiếng nói của cá nhân nhà phê bình mà còn phải phản ánh thái độ ý thức của công chúng, của xã hội đối với các giá trị và khuynh hướng văn học, nghệ thuật, nêu lên những đòi hỏi chính đáng của công chúng của xã hội đối với một tác phẩm, một công trình văn học, nghệ thuật.
Trong tình hình hiện nay, khi thế giới đang ngày càng diễn biến phức tạp và khó lường, khi các thế lực thù địch đang tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, “xâm lăng văn hóa” gắn với bạo loạn lật đổ thì trách nhiệm công dân, vai trò chiến sĩ của những nhà lý luận phê bình văn nghệ cũng cần được phát huy như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (nguyên Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương nhiệm kỳ 2001 - 2005) từng nhấn mạnh, phê bình văn nghệ phải là những “ngọn roi” phản kích những âm mưu, ý đồ đen tối trong lĩnh vực văn nghệ, những tác phẩm đi ngược lại lợi ích của nhân dân.
Từ những nhận thức trên, có thể thấy vai trò, trách nhiệm của lý luận phê bình văn học, nghệ thuật là phải có tác dụng phân tích, đánh giá, định hướng các hoạt động sáng tác văn nghệ, góp phần nâng cao các giá trị tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật, tác động tích cực đến sự sáng tạo của văn nghệ sĩ, đến thị hiếu, nhu cầu, trình độ của quần chúng, bảo vệ những giá trị của nền văn nghệ của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn học, nghệ thuật thế giới, góp phần tích cực xây dựng phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2- Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đã có những đánh giá về thực trạng văn học, nghệ thuật nước ta thời gian qua. Nhìn tổng thể, văn học, nghệ thuật đã nắm bắt được dòng mạch chính là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn, gắn bó với dân tộc, nỗ lực phản ánh chân thực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chủ nghĩa nhân văn, phẩm chất nhân đạo được phát huy và đề cao. Văn học, nghệ thuật đã cố gắng phát hiện, khẳng định các nhân tố mới, tham gia cuộc đấu tranh lên án cái xấu, cái ác, sự biến chất, thoái hóa về nhân cách và đạo đức trong một bộ phận xã hội. Tự do trong sáng tạo nghệ thuật và sự đa dạng về nội dung phong cách sáng tác, phương thức biểu hiện được tôn trọng, dấu ấn cá nhân sáng tạo được khẳng định. Sự xuất hiện lực lượng sáng tác trẻ với những khả năng sáng tạo và sự đa dạng về phong cách là dấu hiệu mới mang lại niềm tin vào tiền đồ phát triển mới của văn nghệ Việt Nam.
Ngày 25-7-2018, trong Lễ kỷ niệm 70 năm thành lập các hội văn học, nghệ thuật Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá khái quát và sâu sắc về văn học, nghệ thuật nước nhà, đó là hơn 30 năm qua, từ sự tác động mạnh mẽ của tư tưởng đổi mới, văn học, nghệ thuật đã vượt qua nhiều thách thức khó khăn, tiếp tục phát triển nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống đấu tranh, lao động sáng tạo của nhân dân, bước đầu tạo dựng nên một diện mạo mới của văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại, trong đó, một mặt, tiếp tục phát huy những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa, văn nghệ dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và nhân văn sâu sắc, giàu bản sắc dân tộc; mặt khác, cố gắng bám sát hiện thực đời sống trong cuộc đấu tranh phong phú, phức tạp ngày hôm nay và nỗ lực vươn lên phát triển toàn diện, ngày càng hiện đại, đa dạng hóa về nội dung và hình thức biểu hiện.
Kết quả rất đáng trân trọng trên đây của nền văn học, nghệ thuật Việt Nam trong thời gian qua không thể tách rời sự đóng góp trực tiếp của phê bình văn học, nghệ thuật. Trong thời gian qua phê bình văn học đã có đóng góp trực tiếp đối với quá trình đổi mới, phát triển của nền văn nghệ Việt Nam. Đội ngũ phê bình trong thời gian qua có bước phát triển về số lượng. Trong giới phê bình văn học, nghệ thuật, thế hệ “3x”, “4x” vẫn đang còn những đóng góp rất đáng trân trọng; thế hệ “5x”, “6x” là lực lượng chủ lực trong hoạt động phê bình hiện nay; ở thế hệ “7x”, “8x”, “9x” đã và đang xuất hiện một số cây bút phê bình được đào tạo chính quy, có trình độ khoa học tốt, có phương pháp làm việc mới, đang thể hiện là những “người trong cuộc” của hoạt động sáng tác. Họ ngày càng thấu hiểu, đồng cảm với sáng tác và ngày càng tự tin trong phân tích, đánh giá các sự kiện văn nghệ đang diễn ra với một cái nhìn có chủ kiến. Ý thức trách nhiệm của đội ngũ phê bình được đề cao. Số lượng bài phê bình tăng nhiều hơn, bước đầu kết hợp tốt giữa khâu “tác nghiệp hằng ngày” của mỗi nhà phê bình với việc tổ chức các sự kiện tập trung. Sau khi có Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị, nhìn chung hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật đã từng bước khắc phục được những hoạt động tự phát, tản mạn. Các cơ quan, các tổ chức có trách nhiệm trong lĩnh vực này, như Hội Nhà văn Việt Nam, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học Việt Nam, một số cơ quan báo, đài đã có những chuyển biến tích cực trong việc đổi mới tư duy, hướng dẫn, chỉ đạo tổ chức thực tiễn nhiều hoạt động phê bình văn nghệ với nhiều hình thức đa dạng, phong phú. Các hội văn nghệ đã tổ chức được nhiều hội thảo, chuyên đề đi sâu vào nghề nghiệp, được triển khai rộng khắp cả nước.
Bên cạnh những bước phát triển và những đóng góp tích cực của phê bình văn học, nghệ thuật trong thời gian qua, so với yêu cầu và định hướng phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phê bình văn nghệ Việt Nam vẫn còn bộc lộ những yếu kém, bất cập như Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ ra. Đó là, hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật có biểu hiện tụt hậu so với yêu cầu, chưa thực hiện tốt chức năng hướng dẫn, điều chỉnh và đồng hành với sáng tác. Chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ, xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác giả và tác phẩm, văn hóa phê bình bị hạ thấp. Những biểu hiện tụt hậu của phê bình văn học, nghệ thuật theo một số ý kiến thể hiện ở chỗ: có không ít nhà phê bình chuyên nghiệp lảng tránh trước các hiện tượng, tác phẩm văn nghệ gây tranh cãi mà bạn đọc rất cần những tiếng nói đánh giá mang tính chuyên môn. Có loại ý kiến cho rằng, các nhà phê bình không lảng tránh, mà là do những biểu hiện “nhiễu loạn” của phê bình, rộng hơn là của đời sống văn học, nghệ thuật đang làm các nhà phê bình “ngán ngẩm”. Lại có ý kiến cho rằng, các nhà phê bình không phải lảng tránh mà quá ít các tác phẩm văn nghệ có giá trị, được dư luận quan tâm và quá nhiều các sản phẩm rẻ tiền...; hoặc do tình trạng phê bình lạc hậu nên phê bình văn học, nghệ thuật chưa chủ động định hướng được dư luận; tác phẩm thành công không được kịp thời phát hiện, khẳng định; xu hướng thể nghiệm mới không được kịp thời đánh giá, gợi mở; những tác phẩm yếu kém cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật không được kịp thời “rung chuông”, những âm mưu, ý đồ đen tối trong lĩnh vực văn nghệ, những tác phẩm đi ngược lại lợi ích của dân tộc, của nhân dân không được kịp thời cảnh cáo và phản kích... Tất cả những biểu hiện đó đã làm gia tăng tình trạng quần chúng tiếp nhận giảm niềm tin vào các nhà phê bình văn học, nghệ thuật. Nhiều nhà phê bình đã cảnh báo nguy cơ phê bình văn nghệ đang tự đánh mất vị trí, trách nhiệm của mình là đánh giá thẩm định, dự báo, định hướng và là nhịp cầu nối giữa văn học, nghệ thuật với công chúng.
Hiện nay, một vấn đề rất đáng lo ngại là một bộ phận không nhỏ các nhà phê bình chưa bao quát hoặc đứng ngoài sự sôi động của đời sống sáng tác văn học, nghệ thuật, nhiều người lúng túng trước các hiện tượng mới lạ trong hoạt động sáng tác, một số người chỉ quen với các mô típ, mô hình cũ và “dị ứng” với một số hiện tượng mới lạ; một số nhà phê bình thiếu bản lĩnh, né tránh cuộc đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, những mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật và cuộc “xâm lăng văn hóa”. Trong khi đó một số không ít nhà phê bình gần như đã “gác bút”, “lui về hậu trường” để nghiên cứu, khảo cứu, viết chân dung... Không ít văn nghệ sĩ né tránh, lảng tránh những vấn đề bức xúc, gay cấn nóng bỏng của phê bình văn nghệ. Đáng chú ý, do không ít cơ quan báo chí và cán bộ biên tập các chuyên trang trên các báo hiện nay chưa được đào tạo chuyên môn lý luận phê bình văn nghệ, tuy nhanh nhạy nắm bắt được dư luận xã hội nhưng thiếu kiên định đường lối văn nghệ của Đảng, thiếu hụt nhiều về vốn văn hóa, thiếu chuyên nghiệp, thiếu bản lĩnh, ngại va chạm phiền phức nên thời gian qua không tổ chức được các cuộc tranh luận văn nghệ gây dấu ấn, còn có tình trạng vi phạm tinh thần dân chủ trong học thuật, có một số tin, bài phê bình văn nghệ theo hướng quảng cáo cho một số tác giả, tác phẩm. Văn hóa phê bình trên không ít tờ báo, tạp chí còn bị hạ thấp, đang có sự nhiễu loạn, “mù mờ” về chuẩn, thậm chí “lệch chuẩn”.
Sự giảm sút chất lượng phê bình văn nghệ trong thời gian qua thể hiện chủ yếu là chất lượng khoa học và tính chuyên nghiệp của phê bình bị xem nhẹ. Xuất hiện lối phê bình cảm tính, thiếu một hệ thống tiêu chí tin cậy để đánh giá tác phẩm, tác giả. Thực trạng đáng lo ngại này đã kéo dài nhiều năm có thể do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động nghiên cứu lý luận văn học, nghệ thuật chưa được coi trọng, còn lạc hậu về nhiều mặt, chưa giải đáp được nhiều vấn đề của đời sống, còn xa rời thực tiễn sáng tác, có biểu hiện xơ cứng kém năng động, giảm sút tác động đối với sáng tác. Nền tảng lý luận của văn nghệ là mỹ học Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa - văn nghệ chưa được nghiên cứu, học tập đến nơi đến chốn, thậm chí còn có biểu hiện thành kiến, chối bỏ, trong khi đó lại tiếp nhận vồ vập, thiếu tỉnh táo một vài lý thuyết văn nghệ nước ngoài gán ghép tùy tiện với thực tiễn trong nước. Có thể nói, lý luận phê bình thời gian qua đã rơi vào tình trạng lúng túng, bị động trong quan niệm và phương hướng lựa chọn các giá trị.
Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ lý luận phê bình còn nhiều yếu kém, bất cập, thể hiện qua chương trình nội dung lạc hậu, chưa coi trọng chất lượng đào tạo toàn diện về chính trị, tư tưởng, chuyên môn; đội ngũ giảng viên đầu đàn có trình độ chuyên môn cao bị thiếu hụt ngày càng nhiều. Điều kiện, phương tiện dạy và học còn nghèo nàn lạc hậu,... Nhiều khoa lý luận, phê bình không tuyển được sinh viên; trong khi sinh viên tốt nghiệp hầu như không được làm lý luận, phê bình, do đó nguy cơ thiếu hụt lực lượng phê bình chuyên nghiệp là ở mức báo động.
Thứ ba, hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật trên mạng in-tơ-nét hiện nay còn thiếu được kiểm soát, dẫn đến tình trạng một số tác giả tự do đến mức thái quá, thậm chí có tình trạng thóa mạ nhau không thể kiểm soát. Điều đáng lưu ý là trong một thời gian dài, chúng ta chưa dành sự quan tâm đúng mức với các hiện tượng này, cho rằng đó là “chuyện ảo”, “không nên biến cái ảo thành cái thật!”. Có người còn cho rằng, sợ lấy báo viết phê bình báo mạng là phạm luật!... Thực chất đó là sự hữu khuynh, né tránh, thiếu dũng khí, thiếu một sự chỉ đạo kiên quyết, có bài bản.
Thứ tư, vấn đề động lực, vấn đề lợi ích trong hoạt động phê bình văn nghệ chưa được giải quyết tốt. Nhuận bút cho một bài phê bình quá thấp, ngay cả so với sáng tác. Sự bất hợp lý này rất chậm được khắc phục, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt tình của người phê bình, không ai sống được bằng nghề phê bình.
Thứ năm, hiệu lực của “một vị tư lệnh” với vai trò chỉ đạo thống nhất, có chức trách, quyền hạn, thẩm quyền đã được Ban Bí thư thấy rõ nhưng chưa được cụ thể hóa trong cơ chế, chính sách đặc thù của Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, dẫn đến tính trạng chưa đủ mạnh của cơ quan này, đặc biệt trong vai trò chỉ đạo và phối hợp chung.
3- Trên cơ sở phân tích thực trạng, nguyên nhân được trình bày ở trên, chúng tôi đề xuất 8 nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học, nghệ thuật:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phê bình văn học, nghệ thuật.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng công tác phê bình văn nghệ đòi hỏi phải coi trọng tất cả các khâu nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên đối với vai trò, vị trí của văn học, nghệ thuật và phê bình văn học, nghệ thuật, có năng lực và có phương pháp lãnh đạo lĩnh vực rất đặc thù và tinh tế này. Trước mắt thực hiện có hiệu quả việc đưa vào chương trình đào tạo cán bộ ở các trường Đảng nội dung về văn học, nghệ thuật. Cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải đưa nhiệm vụ phát triển văn hóa, văn nghệ vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng địa phương, từng ngành. Xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý, bảo đảm định hướng chính trị, khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô bạo đối với hoạt động văn học, nghệ thuật và phê bình văn học, nghệ thuật. Khắc phục triệt để được xu hướng hữu khuynh, buông lỏng, thả nổi không phê phán những tác phẩm đi ngược lại các giá trị chân, thiện, mỹ và giá trị tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng.
Hai là, triển khai trên thực tế kết quả của Dự án khoa học cấp Nhà nước “Xây dựng hệ thống lý luận về phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam - Thực tiễn và định hướng phát triển”.
Từ khi thành lập, Đảng ta luôn chủ trương cơ sở lý luận của nền văn học nghệ thuật Việt Nam là lý luận mỹ học Mác - Lê-nin và phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Việc thực hiện quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đúng đắn đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử mới, có thể nói, phê bình văn học, nghệ thuật của chúng ta hiện nay đã rơi vào tình trạng “loạn chuẩn”. Nền phê bình văn học, nghệ thuật của chúng ta đang thiếu một chuẩn mực, thiếu một lý luận, một tư tưởng nghệ thuật chủ đạo. Ban Bí thư cần chỉ thị cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật cần hiện thực hóa các định hướng phát triển lý luận và phê bình văn học, nghệ thuật.
Ba là, trong quá trình khẩn trương thể chế hóa 7 giải pháp của Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X cần bổ sung cơ chế, chính sách ưu đãi đối với hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật.
Sau 10 năm Nghị quyết số 23-NQ/TW được ban hành, công tác thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước ở lĩnh vực cơ chế, chính sách đãi ngộ đặc thù đối với văn nghệ sĩ nói chung, các nhà phê bình văn học, nghệ thuật nói riêng còn rất chậm trễ. Để khắc phục tình trạng này và cải thiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ phê bình văn học, nghệ thuật, các cơ quan được phân công thể chế hóa các đề án của Nghị quyết số 23-NQ/TW cần khẩn trương hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đến nay mới có 7 giải pháp của Nghị quyết được thể chế hóa thành 9 đề án, trong đó 4 đề án đã đi vào cuộc sống và còn 5 đề án của Chính phủ cần được thể chế hóa thành 36 cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển văn học, nghệ thuật. Trong 36 cơ chế, chính sách, cần có nội dung ưu tiên cho lĩnh vực lý luận, phê bình, như chế độ nhuận bút, đào tạo cán bộ lý luận, phê bình chuyên nghiệp, hỗ trợ ưu đãi cho các báo, tạp chí văn nghệ, cho xuất bản các sách lý luận, phê bình, các chính sách ưu đãi quảng bá các tác phẩm phê bình. Xây dựng quỹ văn học, nghệ thuật nhằm hỗ trợ sáng tạo cho văn nghệ sĩ, hỗ trợ biểu diễn, quảng bá và ưu đãi cần thiết cho sáng tác lý luận, phê bình văn nghệ. Theo kinh nghiệm của nhiều quỹ văn hóa có hiệu quả của các nước, trong cơ cấu nhân sự của tổ chức quỹ này có 20% số công chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, 60% là nghệ sĩ, 20% là các doanh nhân, các “mạnh thường quân”. Nhà nước cấp một khoản ngân sách ban đầu, còn giao cho Ban lãnh đạo quỹ này một cơ chế xổ số (nghĩa là cho phép phát hành, kinh doanh một loại xổ số để có doanh thu cho hoạt động của quỹ) và một số cơ chế xã hội hóa khác. Trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông cần nghiên cứu chế độ nhuận bút cho các tác phẩm phê bình xuất bản trên in-tơ-nét ở những trang được cấp phép, hoàn thiện chế độ bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm lý luận, phê bình; khuyến khích các thư viện mua tác phẩm phê bình văn học, nghệ thuật.
Bốn là, đối mới căn bản, toàn diện công tác đào tạo đội ngũ lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật.
Để nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ làm công tác phê bình văn học, nghệ thuật hiện nay, cần tập trung vào một số nhiệm vụ, như xây dựng, nâng cấp các khoa, bộ môn lý luận, phê bình ở các trường đại học. Việc thiết yếu cần làm hiện nay là duy trì mã ngành đào tạo, xây dựng và phát triển các khoa, bộ môn này để đào tạo lực lượng cán bộ lý luận, phê bình đáp ứng yêu cầu mới. Bên cạnh đó, đối với những lĩnh vực văn học, nghệ thuật hiện nay chưa có mã ngành phê bình trong các trường đại học cần được xây dựng ngay. Định hình cơ chế, chính sách để thu hút, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu. Để làm tốt công tác này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chế độ thu hút sinh viên có năng lực, có kế hoạch cử đi đào tạo ở nước ngoài với cam kết sau khi học xong sẽ tiếp tục phục vụ công tác giảng dạy. Bên cạnh đó, Nhà nước cần cải cách chế độ tiền lương để nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, giảng viên ngành nghệ thuật nói chung và chuyên ngành lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật nói riêng. Thêm nữa, trong khi đầu tư tạo nguồn giảng viên, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách tài chính mới cho các trường có điều kiện để mời các giáo sư, các chuyên gia có uy tín trên thế giới đến giảng dạy và trao đổi kiến thức, kinh nghiệm giảng dạy cho đội ngũ giảng viên hiện có. Tập trung xây dựng hệ thống giáo trình lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Trong khi biên soạn, xây dựng bộ giáo trình ngành lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cần có sự tiếp thu, chọn lọc những vấn đề lý luận mới, tiên tiến trên thế giới, thẩm định và tiếp thu những vấn đề phù hợp với thực tiễn văn học, nghệ thuật Việt Nam, đồng thời phải thẩm định, tổng kết hệ thống kiến thức trong các bộ giáo trình đã có để chắt lọc, kế thừa. Có chính sách ưu đãi trong tuyển sinh, đào tạo và giải quyết đầu ra cho sinh viên ngành phê bình văn học, nghệ thuật. Để giải quyết tình trạng này, chúng tôi kiến nghị Nhà nước thực hiện các giải pháp sau: Miễn học phí cho sinh viên các ngành lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật; cấp học bổng cho sinh viên có kết quả học tập tốt; sinh viên tốt nghiệp ngành lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật được điều động biên chế về các cơ quan quản lý văn học nghệ thuật, các báo, tạp chí văn nghệ và chuyên trang, chuyên mục văn nghệ của các báo, đài...
Năm là, giáo dục thị hiếu, định hướng thẩm mỹ công chúng văn học, nghệ thuật và phê bình văn học, nghệ thuật.
Rà soát lại, điều chỉnh chương trình, sách giáo khoa phổ thông về văn học, nghệ thuật. Mục tiêu của chương trình, sách giáo khoa không chỉ dạy học sinh kiến thức về những tác phẩm được tuyển chọn mà quan trọng hơn, phải định hướng cho học sinh biết phân biệt cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật, biết độc lập thưởng thức các giá trị văn học, nghệ thuật. Đưa văn học, nghệ thuật vào các nội dung sinh hoạt của các tổ chức thanh, thiếu niên. Tăng cường hoạt động, kiểm soát chất lượng phê bình văn học, nghệ thuật trên các phương tiện thông tin đại chúng, trước hết là trên một số cơ quan báo chí chủ chốt. Qua đây, cần xây dựng uy tín cho các văn nghệ sĩ, những cây bút phê bình có nhiều cống hiến để định hướng công chúng.
Sáu là, tăng cường giáo dục rèn luyện văn hóa phê bình, đạo đức nghề nghiệp và ý thức trách nhiệm của nhà phê bình văn học, nghệ thuật, khắc phục mọi biểu hiện phi văn hóa trong hoạt động phê bình.
Các hội văn học, nghệ thuật Trung ương và các tỉnh, thành củng cố nâng cao vị trí, vai trò của hội đồng hoặc ban lý luận, phê bình của hội, tập hợp trong hội đồng, ban những hội viên có bề dày nghề nghiệp, có uy tín chuyên môn, chú ý việc kết nạp các hội viên phê bình, cải tiến sinh hoạt của hội đồng, chăm lo giáo dục đoàn kết nội bộ, chăm lo quyền lợi hội viên làm phê bình. Các cơ quan báo chí phối hợp với các hội đồng lý luận, phê bình, hằng năm tổ chức các trại sáng tác phê bình văn học, nghệ thuật, triển khai các cuộc họp thảo luận, tranh luận về một số vấn đề hoặc một số tác phẩm văn nghệ được dư luận quan tâm cũng như diễn đàn đấu tranh với những quan điểm sai trái trong văn học, nghệ thuật. Hội Nhà báo Việt Nam trong xét giải thưởng báo chí quốc gia hằng năm cần có giải thưởng cho các tác phẩm phê bình văn học, nghệ thuật đăng trên các báo. Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với các cơ quan báo chí xử lý kịp thời các biểu hiện thiếu văn hóa trong phê bình, tranh luận đang có xu hướng gia tăng thời gian gần đây.
Bảy là, tăng cường lãnh đạo, quản lý hoạt động tuyên truyền văn nghệ và phê bình văn học, nghệ thuật trên hệ thống báo chí, truyền thông và trong hoạt động xuất bản.
Phát huy mạnh mẽ vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật trên báo chí và hoạt động xuất bản. Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông cần tăng cường lãnh đạo, quản lý, định hướng báo chí, xuất bản đẩy mạnh và nâng cao chất lượng tuyên truyền về văn nghệ và phê bình văn học, nghệ thuật trên báo chí. Trước hết, cần có quy định cụ thể và tỷ lệ các bài phê bình văn học, nghệ thuật được đăng trên các báo, đài và kế hoạch xuất bản hằng năm các sách lý luận, phê bình văn nghệ của các nhà xuất bản. Ban biên tập các báo, đài có trách nhiệm và tổ chức nhiều hình thức để các nhà phê bình chuyên nghiệp có tiếng nói kịp thời trước sự kiện, tác phẩm văn học, nghệ thuật mới.
Yêu cầu bắt buộc đối với lãnh đạo các cơ quan báo chí văn nghệ hoặc người phụ trách chuyên trang, chuyên mục văn nghệ của các báo, đài, các nhà xuất bản phải được đào tạo hoặc bổ túc bài bản về văn học, nghệ thuật. Bên cạnh đó, biên tập viên báo chí, nhà xuất bản văn nghệ phải được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên về lý luận, phê bình văn nghệ. Trong tình hình trước mắt, cần tổ chức các lớp bổ túc kiến thức về lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật cho đội ngũ này. Cần có chế độ khen thưởng đối với các báo, tạp chí, nhà xuất bản thực hiện có chất lượng, hiệu quả công tác phê bình văn học, nghệ thuật. Bên cạnh đó, cần có những chế tài đúng mức đối với các cơ quan báo chí, xuất bản văn nghệ đăng tải, quảng bá những sản phẩm văn nghệ rẻ tiền và những bài phê bình chiều theo thị hiếu thấp kém, có biểu hiện tiêu cực, tiếp tay cho hoạt động quảng bá các tác phẩm thấp kém nhằm trục lợi cho một số tổ chức và cá nhân. Có chiến lược quảng bá các tác phẩm phê bình văn học, nghệ thuật trên in-tơ-nét. Đây là một diễn đàn rất quan trọng và có sức mạnh rất lớn. Tuy nhiên, in-tơ-nét là một không gian thông tin rất khó kiểm soát, chính vì vậy, cần có chiến lược tổ chức những cây bút phê bình chủ chốt, xây dựng uy tín trên mạng in-tơ-nét để tạo được dòng thông tin văn học, nghệ thuật chính thống, đủ sức thuyết phục để thu hút công chúng.
Tám là, nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp của Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương với ban lý luận, phê bình hoặc hội đồng lý luận, phê bình ở các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương để thúc đẩy hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật.
Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò của mình, góp phần thúc đẩy hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật phát triển, hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương cần giữ mỗi liên hệ thường xuyên, chặt chẽ hơn nữa với ban lý luận, phê bình hoặc hội đồng lý luận phê bình ở các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đặt hàng các tác phẩm lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Hiện nay, Hội đồng đã có quy chế xét tặng thưởng và hỗ trợ cho các tác phẩm lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật. Trong thời gian tới, Hội đồng cần nâng cao hơn nữa chất lượng tặng thưởng và hỗ trợ để khẳng định uy tín, tập hợp đội ngũ các nhà phê bình. Hội đồng cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ hơn nữa với ban lý luận, phê bình hoặc hội đồng lý luận phê bình ở các hội văn học, nghệ thuật Trung ương và địa phương tổ chức các trại sáng tác chuyên về lý luận, phê bình, các lớp tập huấn chuyên sâu về phê bình văn học, nghệ thuật cho các hội viên chuyên ngành lý luận, phê bình của các hội. Hội đồng giữ vai trò đầu mối, phối hợp với các báo, đài, tạp chí văn nghệ, các nhà xuất bản để giới thiệu, quảng bá các tác phẩm phê bình văn học, nghệ thuật. Trước những tác phẩm, hiện tượng văn học, nghệ thuật mới ra đời, Hội đồng phối hợp với các cơ quan thông tin, truyền thông mở các cuộc tọa đàm, mời các nhà phê bình tham gia đồng thời phát hành, quảng bá, xuất bản. Xây dựng Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trở thành ngọn cờ tập hợp đội ngũ, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật./.
Kết quả lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội đồng Nhân dân tỉnh bầu tại một số địa phương trong cả nước  (08/12/2018)
Đề nghị tạm dừng sắp xếp các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện  (08/12/2018)
Các hoạt động của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại Hàn Quốc  (08/12/2018)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay