TCCSĐT - Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thường xuyên phải đối mặt với nhiều loại hình thiên tai khốc liệt, gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, kết cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội và tác động xấu đến môi trường. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu toàn cầu đã và đang làm thiên tai ở nước ta có chiều hướng ngày càng phức tạp, gia tăng nhiều hơn so với những thập kỷ trước về cả quy mô cũng như chu kỳ lặp lại kèm theo những đột biến khó lường.
Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological Organization - WMO): Khí hậu là trạng thái trung bình của thời tiết tại một khu vực nào đó, như một tỉnh, một nước, một châu lục hoặc toàn cầu trên cơ sở chuỗi số liệu dài (thường từ nhiều tháng đến hàng triệu năm, trước đây thời gian dùng để đánh giá là 30 năm)(1). Còn dưới giác độ pháp lý, khí hậu là tổng hợp các điều kiện thời tiết ở một khu vực nhất định, đặc trưng bởi các đại lượng thống kê dài hạn của các yếu tố khí tượng tại khu vực đó (2). Rõ ràng biến đổi khí hậu ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại, phát triển của nhân loại. Nên muốn ứng phó tốt với biến đổi khí hậu cần có những giải pháp để giám sát biến đổi khí hậu được hiệu quả và dự báo biến đổi khí hậu. Qua đó, giám sát khí hậu được hiểu là tổng hợp các hoạt động theo dõi, quan sát thu thập các thông tin diễn biến về thời tiết tại một khu vực nào đó trong một thời gian dài (thường là 30 năm) dùng để đánh giá về tình hình biến đổi khí hậu tại khu vực đó và tác động của nó đến tài nguyên, môi trường, hệ sinh thái, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội.

Nếu khí hậu chỉ tình hình thời tiết trong một khoảng thời gian dài, thì thiên tai lại nhấn mạnh đến các hiện tượng thời tiết (3) trong một thời gian địa điểm nhất định, nhưng có tác động tiêu cực đến con người. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về thiên tai. Cách hiểu phổ biến, thiên tai là hiện tượng thiên nhiên gây ra sự tổn hại về tính mạng, tài sản, hệ sinh thái động, thực vật, đời sống, sản xuất của con người, như bão, lụt, hạn hán, giá rét, động đất.... Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013 cho rằng, thiên tai là hiện tượng tự nhiên bất thường có thể gây thiệt hại về người, tài sản, môi trường, điều kiện sống và các hoạt động kinh tế - xã hội, bao gồm 19 loại hình thiên tai phổ biến: bão, áp thấp nhiệt đới, lốc, sét, mưa lớn, lũ, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, sụt lún đất do mưa lũ hoặc dòng chảy, nước dâng, xâm nhập mặn, nắng nóng, hạn hán, rét hại, mưa đá, sương muối, động đất, sóng thần và các loại thiên tai khác. Còn ứng phó với thiên tai là tổng hợp các hoạt động nhằm phòng ngừa, giảm nhẹ thiên tai, ngăn chặn thiên tai, khắc phục hậu quả thiên tai và thích ứng, giảm nhẹ thiên tai.

Chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu phản ánh quan điểm chính trị về mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu, nguồn lực để ứng phó thiên tai và giám sát khí hậu được thể hiện thông qua hoạt động ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, hoạt động lập pháp của Quốc hội, hoạt động hành pháp của Chính phủ, hoạt động bảo vệ pháp luật của tòa án và của các thiết chế xã hội khác,… về vấn đề này. Kết quả của chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu là các định hướng chính sách, các quy phạm pháp luật về vấn đề này. Hay nói cách khác chính sách, pháp luật về chủ động ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu là các quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu, nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu đến con người.

Biến đối khí hậu và thiên tai: Biểu hiện và tác động

Theo Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu UN IPCC, 2007, biến đổi khí hậu là sự thay đổi trạng thái khí hậu có thể được nhận biết bằng các thay đổi giá trị trung bình và/hoặc sự biến thiên các đặc tính của nó, và duy trì trong các thời đoạn kéo dài, theo tiêu chuẩn thường là hàng thập kỷ hoặc dài hơn. Còn theo khoản 13, Điều 3, Luật Khí tượng thủy văn 2015, biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu trong một khoảng thời gian dài do tác động của các điều kiện tự nhiên và hoạt động của con người, biểu hiện bởi sự nóng lên toàn cầu, mực nước biển dâng và gia tăng các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan (4).

Những năm vừa qua biến đổi khí hậu tác động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật, như: dịch bệnh, thiệt hại về kinh tế, giảm đa dạng sinh học, hủy diệt hệ sinh thái,… Ví dụ: biến đổi khí hậu làm đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam hai, ba năm trở lại đây bị thiếu nước ngọt trầm trọng, không còn mùa nước nổi, không có phù sa về bồi đắp cho đồng bằng dẫn tới nước biển xâm nhập sau vào đất liền. Đặc biệt biến đổi khí hậu còn gây ra hiện tượng thời tiết cực đoan, bất thường, như: hiện tượng El Nino gây hạn hán kéo dài tại Ninh Thuận, Bình Thuận, có những nơi hơn một năm không có mưa; hiện tượng LaNina bão lũ thường xuyên, bất thường, khó lường,… gây thiệt hại lớn cho đời sống, sản xuất của người dân,…

Do vậy để ứng phó với biến đổi khí hậu, có hai loại giải pháp: một là, để giảm tác động của biến đổi khí hậu đối với xã hội (thích ứng), và hai là, giảm tốc độ biến đổi khí hậu (giảm nhẹ).

Theo định nghĩa của Chương trình khung về vấn đề biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (UNFCCC) thích ứng với biến đổi khí hậu “Là các bước thực tế để bảo vệ các quốc gia và các cộng đồng có thể bị phá vỡ hoặc bị thiệt hại do biến đổi khí hậu (UNFCCC)”. Còn giảm nhẹ biến đổi khí hậu là sự can thiệp của con người nhằm giảm nhẹ các nguồn phát thải khí nhà kính hoặc tăng cường các bể chứa nhà kính như giảm bớt lượng phát thải khí nhà kính nguyên nhân gây nên sự nóng lên toàn cầu, hay việc sử dụng xăng dầu có nguồn gốc tự nhiên một cách hiệu quả hơn trong các hoạt động công nghiệp hoặc phát điện, hoặc chuyển sang sử dụng năng lượng mặt trời hoặc năng lượng gió, cải thiện lớp cách nhiệt trong các công trình xây dựng và mở rộng diện tích rừng và các bể chứa CO2 khác để loại bỏ một lượng lớn cácbonic trong khí… Những ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu này sẽ góp phần làm giảm hiện tượng thời tiết cực đoan bất thường.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải chủ động ứng phó hiệu quả với thiên tai. Để xây dựng, thực hiện pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu được hiệu quả thì quá trình xây dựng pháp luật về vấn đề này cần dựa trên các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc cũng như yêu cầu nhất định. Xuất phát từ thực trạng các hiện tượng thiên tai, thời tiết cực đoan ở Việt Nam diễn ra ngày càng nhiều và biến đổi khí hậu ngày càng tác động gây thiệt hại nặng nề cả kinh tế, xã hội và môi trường cho Việt Nam, do vậy mục tiêu của chính sách pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu là phòng ngừa, hạn chế những tác động xấu của thiên tai, biến đổi khí hậu đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người góp phần thúc đẩy phát triển bền vững đất nước.

Để thực hiện mục tiêu trên, quan điểm xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu đã được Đảng ta khẳng định tại Nghị quyết số 26 NQ/TƯ ngày 05-8-2008 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá X về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn: "nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn; chủ động triển khai một bước các công trình giảm thiểu tác hại của biến đổi khí hậu và nước biển dâng...". Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 172/2007/QĐ-TTg ngày 16-11-2007 cũng khẳng định mục tiêu chung: là huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai từ nay đến năm 2020.

Xây dựng, thực hiện chính sách. pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu


Trong một nghiên cứu về thảm họa thiên nhiên, Giáo sư chuyên ngành khí tượng Kerry Emanuel đến từ Viện Công nghệ Massachusetts của Mỹ nhận định hầu hết các thảm họa thiên nhiên đều có sự "đóng góp" lớn của hai yếu tố, đó là con người và thiên nhiên. Trong khi đó, cùng với đặc điểm địa lý, nhà nghiên cứu Brian McNoldy đến từ Đại học Miami cho rằng hậu quả của hành động của con người "đóng góp" khoảng 80% vào các thảm họa thiên nhiên xảy ra trên thế giới. Do vậy, để việc xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu ở Việt Nam được hiệu quả cần phải dựa trên các nguyên tắc: một là, bảo đảm quyền an toàn về tính mạng, sức khỏe của con người; hai là, nguyên tắc bảo đảm phát triển bền vững; ba là, nguyên tắc xã hội hóa các hoạt động ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu; bốn là, nguyên tắc hợp tác quốc tế và khu vực trong ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu.

Bên cạnh đó, việc xây dựng, thực hiện chính sách. pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu cần đáp ứng các yêu cầu sau:

Một là, xây dựng chính sách. pháp luật về ứng phó với thiên thai và giám sát khí hậu cần đảm bảo tính hoàn thiện, tính công khai, minh bạch, dễ hiểu, dễ tiếp cận, chi phí thực hiện thấp;

Hai là,
xây dựng chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên thai và giám sát khí hậu cần hướng vào phòng, ngừa, hạn chế các nguyên nhân gây ra thiên tai, biến đổi khí hậu;

Ba là, chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu phải đảm bảo tính dự báo, cảnh báo;

Bốn là, chính sách, pháp luật về tính nhanh chóng, kịp thời;

Năm là, chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu cần đảm bảo tính phòng ngừa rủi ro phát sinh;

Sáu là, chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu cần đảm bảo tính cộng đồng trách nhiệm. Bên cạnh khẳng định trách nhiệm Nhà nước, cần phát huy vai trò của cộng đồng, của các tổ chức xã hội, truyền thông trong ứng phó thiên tai và giám sát khí hậu;

Bảy là, chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu cần đảm bảo tính liên kết vùng, quốc gia, khu vực và quốc;

Tám là, chính sách, pháp luật về ứng phó với thiên tai và giám sát biến đổi khí hậu cần đảm bảo ứng phó với thiên tai và giám sát khí hậu cần gắn vai trò của khoa học công nghệ./.
----------------
Tài liệu tham khảo:

(1). Xem thêm sách: Kiến thức tổng quát về biến đổi khí hậu, tác giả Lê Anh Tuấn, Đại học Cần Thơ, Sóc Trăng, năm 2014

(2). Xem: khoản 11 Điều 3 Luật Khí tượng thủy văn 2015

(3). Thời tiết là trạng thái của khí quyển tại một thời điểm và khu vực cụ thể được xác định bằng các yếu tố và hiện tượng khí tượng. (Xem: khoản 6 Điều 3 Luật Khí tượng thủy văn 2015)

(4). Xem: khoản 13 Điều 3 Luật Khí tượng thủy văn 2015