TCCSĐT - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản vô giá về lĩnh vực chính trị, về nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước, phương thức quản lý xã hội, quản trị quốc gia phù hợp với đặc thù, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong thế kỷ XX. Trong đó, Người đặc biệt coi trọng đến vấn đề nguồn gốc, bản chất của quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị; chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ; thái độ, trách nhiệm của người cán bộ cách mạng.

Kế tục những di sản quý báu của Người, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã xây dựng và đạt được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực chính trị, đặc biệt là trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta tiếp tục đẩy nhanh quá trình đổi mới toàn diện đất nước; tích cực, chủ động hội nhập khu vực và thế giới. Để tận dụng và khai thác được những thời cơ của quá trình toàn cầu hóa và hạn chế được những thách thức, tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập, chúng ta chủ trương cải cách mạnh mẽ thể chế chính trị theo hướng xây dựng mô hình “Nhà nước pháp quyền”, “Chính phủ kiến tạo”… Tìm hiểu tư tưởng của Người về nguồn gốc, bản chất của quyền lực chính trị; phương thức tổ chức, vận hành của bộ máy nhà nước; đặc biệt là vị trí, vai trò của Chính phủ; chức trách, nhiệm vụ của người cán bộ cách mạng sẽ cho chúng ta “cái nhìn toàn diện hơn” về tiến trình cải cách thể chế nói chung, nhất là xây dựng mô hình “Chính phủ kiến tạo”, “Chính phủ liêm chính” trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.

Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về “Chính phủ phục vụ”


Tư tưởng về “Chính phủ phục vụ” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của Người về nguồn gốc, bản chất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, mà còn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của mình với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đứng đầu Chính phủ, trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới, phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ.

Theo quan điểm của Người, sau khi lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến tay sai, cần lập nên chính quyền của nhân dân. Vấn đề đặt ra là chính quyền đó được xây dựng như thế nào để thực sự là một chính quyền thuộc về nhân dân - quyền lực chính trị thuộc về nhân dân. Trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm hiểu toàn diện, sâu sắc những kinh nghiệm về xây dựng nhà nước trên thế giới, Người đã chủ trương và tiến hành xây dựng Nhà nước dân chủ “kiểu mới”, thể hiện quan niệm hoàn chỉnh về nguyên tắc quản lý xã hội theo pháp luật trong một nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền. Nhà nước kiểu mới là nhà nước dân chủ, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước mà nhân dân lao động thực sự được làm chủ - nhân dân là chủ thể “duy nhất và cao nhất” của quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị; Chính phủ là “công cụ phục vụ” nhân dân.

Từ những năm 20 của thế kỷ trước, Người đã phê phán một cách quyết liệt bản chất của bộ máy nhà nước thực dân. Người vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân đế quốc bên trong cái vỏ hào nhoáng khai hóa văn minh trước công luận. Qua đó, Người chuẩn bị cho mình những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành nên tư tưởng về một Nhà nước kiểu mới, thật sự dân chủ. Điều này thể hiện rõ trong tác phẩm Đường Cách mệnh. Người viết: "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới hạnh phúc”(1). Quan điểm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và phục vụ cho lợi ích của nhân dân là cốt lõi và xuyên suốt trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, tư tưởng về dân chủ - với ý nghĩa là bản chất của quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức, triển khai quyền lực nhà nước là một “nét độc đáo”. Theo Người, dân chủ hiểu một cách chung nhất là quyền lực chính trị thuộc về nhân dân, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước “kiểu mới” phải là nhà nước lấy nhân dân làm động lực xây dựng tổ chức và phương thức hoạt động; đồng thời, coi nhân dân là mục đích “cao nhất” để phục vụ; trong đó vị trí, vai trò của Chính phủ là “phục vụ nhân dân”. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2). Điều 1 Hiến pháp 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban Soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Bộ máy nhà nước là do nhân dân lựa chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, khác với chế độ phong kiến, Vua là chủ, nay là chế độ dân chủ, nhà nước của dân thì dân là chủ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là các “ông quan cách mạng, mà là công bộc của nhân dân”.

Trong khi khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân đối với quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở một điều có ý nghĩa quyết định là: “Làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(3). Người chỉ rõ, Chính phủ phải tìm cách hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phải hết lòng phục vụ nhân dân với tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một Chính phủ phục vụ nhân dân không chỉ ở chỗ do nhân dân lập ra thông qua bầu cử dân chủ, “phải xin ý kiến” nhân dân những công việc hệ trọng, mà còn phải chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân. Người viết: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ giúp đỡ Chính phủ và làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân đã giao phó cho”(4).

Vì vậy, Chính phủ phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt khác, Chính phủ được lập nên không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện vai trò “người cầm lái, người tổ chức” để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề của chính mình. Nói về mối quan hệ giữa Chính phủ và nhân dân, Người chỉ rõ: “dân như nước mình như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động”. Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên, Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Mối quan hệ giữa Chính phủ với nhân dân được thể hiện cụ thể trong mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Chính phủ có nghĩa vụ với nhân dân, đồng thời có những quyền theo quy định của pháp luật để thực thi công quyền mà nhân dân giao phó; ngược lại, nhân dân vừa có quyền, đồng thời có nghĩa vụ đối với Chính phủ.

Điều đáng lưu ý là việc Nhà nước, Chính phủ tiến hành các hoạt động nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, thì đồng thời, đó cũng chính là nhằm tạo điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước và Chính phủ phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hằng ngày của dân tộc, của đất nước.

Quan điểm về quyền làm chủ nhà nước và xã hội của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì vậy, vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức và cơ chế thực hiện. Người chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua nhà nước dân chủ và các đoàn thể do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó. Đến nay, các quan điểm này của Người vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhất là khi chúng ta tiến hành xây dựng một “Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phát triển” trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ở thế kỷ XXI.

Vấn đề xây dựng “Chính phủ kiến tạo” ở nước ta hiện nay

Quan niệm về Nhà nước kiến tạo hay Chính phủ kiến tạo phát triển được tác giả Chalmers Ashby Johnson đưa ra từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Theo ông, đây là một mô hình quản lý nhà nước, trong đó nhà nước, quan trọng nhất là chính phủ đề ra các chính sách mang tính định hướng phát triển, tạo môi trường và điều kiện cho các chủ thể, thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm năng trong môi trường cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Chính phủ tăng cường kiểm tra, giám sát để phát hiện kịp thời những vấn đề nảy sinh trong quá trình quản lý, có thể xảy ra tình trạng mất cấn đối trong nền kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Mô hình Nhà nước, Chính phủ kiến tạo phát triển không làm thay người dân, mà tạo khuôn khổ thể chế và điều kiện cần thiết để từng công dân, tổ chức, danh nghiệp có thể mưu cầu và đáp ứng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình. Điều quan trọng là phải xây dựng một “nhà nước, chính phủ nhỏ nhất nhưng hiệu quả cao nhất”, và “một xã hội lớn nhất” để người dân tự tổ chức cuộc sống của mình. Xã hội hóa đang là một bước đi cụ thể theo hướng này, xã hội hóa không chỉ để huy động các nguồn lực to lớn từ xã hội, mà còn để trả lại cho xã hội những chức năng, những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn “so với nhà nước”. Ngoài ra, để xây dựng một nhà nước, chính phủ “nhỏ nhất có thể”, cần phải làm cho bộ máy hoạt động chuyên nghiệp hơn, hiệu quả hơn. Chính phủ kiến tạo phải làm cho người dân thực sự “hiểu và thành thạo trong sử dụng quyền lực” của mình. Mở rộng dân chủ, bảo đảm sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách… Ngày nay, mô hình nhà nước, chính phủ kiến tạo đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển bền vững của nhiều quốc gia. Ở các nền kinh tế phát triển trên thế giới thường kết hợp “bàn tay vô hình”, tức quá trình tự vận động “theo quy luật” của nền kinh tế thị trường và “bàn tay hữu hình”, sự can thiệp, định hướng “hợp quy luật” của Nhà nước, Chính phủ. Chính phủ kiến tạo phát triển phải cân bằng hai yếu tố “bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình”. Chính phủ sử dụng các công cụ kinh tế, chính sách, “lợi thế” để tổ chức thị trường sao cho khuyến khích được mọi cá nhân và tổ chức tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội. Một minh chứng rõ ràng cho sự thành công của mô hình này là sự phát triển “thần kỳ” của các quốc gia Đông Á, đứng đầu là hai nền kinh tế lớn ở châu Á hiện này là Nhật Bản, Hàn Quốc và nhóm các quốc gia “mới nổi”, trong đó đặc biệt là Xin-ga-po. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào trên thế giới xây dựng mô hình này cũng thành công. Trên thực tế, nếu áp dụng “máy móc”, không căn cứ vào những điều kiện cụ thể, đặc thù của mỗi quốc gia thì mô hình này dễ làm nảy sinh và tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, kìm hãm sự phát triển của quốc gia...

Nhiều nhà lãnh đạo, quản lý và nghiên cứu ở nước ta cho rằng chúng ta đang đi những bước đầu tiên trên con đường chuyển đổi từ mô hình “nhà nước, chính phủ quản lý toàn diện” sang mô hình “kiến tạo phát triển”. Xây dựng mô hình này đòi hỏi tuân thủ đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, “bước nhảy vọt” trong nhận thức về mối quan hệ giữa chính trị - kinh tế; Nhà nước, Chính phủ - thị trường, cũng như trong thực tiễn quản lý nhà nước. Thuận lợi lớn nhất trong quá trình xây dựng mô hình này ở nước ta là ở chỗ những đặc trưng và yêu cầu nêu trên cũng chính là nội dung, công cụ, động lực và mục tiêu của công cuộc đổi mới toàn diện, phát triển kinh tế và tích cực hội nhập quốc tế của nước ta từ khi đổi mới đến nay. Đặc biệt, được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong các văn kiện tại nhiều kỳ Đại hội của Đảng - đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; được thể chế hóa trong Hiến pháp và một loạt các luật định liên quan đã và đang được điều chỉnh, triển khai theo tinh thần đó; cũng như các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới mà Việt Nam đã và đang đàm phán, ký kết, tham gia… Khó khăn trên hành trình xây dựng mô hình này ở nước ta cũng không ít, đòi hỏi trí tuệ, bản lĩnh và cả sự dũng cảm vượt qua nhận thức và quán tính về một nhà nước, chính phủ vốn quen hoạt động như “nhà đầu tư lớn, nhà quản lý lớn, người cung ứng dịch vụ lớn và cũng là người sở hữu lượng tài sản xã hội lớn nhất”. Những thói quen này khiến chúng ta đang phải đối diện với nhiều hệ lụy không thể khắc phục trong ngày một ngày hai. Đó là căn bệnh mãn tính “nghiện quản lý” và rất dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, nặng có thể dẫn tới “tha hóa quyền lực chính trị”, “cha chung không ai khóc”, “lối hành xử méo mó, tùy tiện” do bị chi phối bởi lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích, hình thức, phổ biến… Nợ công, nợ xấu, tham nhũng và lãng phí có xu hướng ngày càng gia tăng cả về quy mô, tính chất và hậu quả. Văn hóa kinh doanh, văn hóa chính trị - xã hội xuống cấp; tham nhũng, lãng phí đang trở thành “quốc nạn” làm suy yếu và cạn kiệt nguồn lực và sức mạnh của quốc gia trên con đường phát triển.

Những nỗ lực đột phá về cải cách thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong cách nghĩ và cách làm trên hành trình xây dựng mô hình “Nhà nước, Chính phủ kiến tạo” ở nước ta. Đặc biệt, chúng ta đang tích cực triển khai Luật Tổ chức chính quyền địa phương; hoàn thiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực và tích cực thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; phân cấp mạnh và rõ hơn giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương theo hướng “việc nào do cấp nào quản lý và giải quyết sát thực tiễn hơn thì giao nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó”; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực giữa các bộ, ngành; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tính thống nhất, thông suốt trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp. Theo đó, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp rõ ràng, đồng bộ và nhất quán, mang tính hiện đại, theo kịp trình độ phát triển luật pháp và thông lệ quốc tế. Các thủ tục hành chính phải đơn giản hóa, công khai, công bằng, thống nhất, nhanh chóng và trực tiếp. Việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn trong hệ thống cơ quan hành chính phải gắn liền với tăng cường trách nhiệm trực tiếp và cuối cùng; bảo đảm mọi tài sản xã hội, mọi công việc của Chính phủ đều có người chịu trách nhiệm cá nhân cụ thể, rõ ràng; tạo lập cơ chế phòng ngừa và trấn áp tham nhũng có hiệu lực. Phát triển hệ thống tư pháp và thực hiện rộng rãi tự do báo chí, ngôn luận, hội họp. Thường xuyên tiến hành “thanh lọc” bộ máy nhà nước, chính phủ từ trên xuống dưới. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật cho công tác quản lý nhà nước. Hiện đại hóa các công nghệ quản lý, đi đôi với nâng cao đạo đức, lý tưởng và năng lực nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, công chức nhà nước...

Thực tiễn đang đòi hỏi cần có “cuộc cách mạng thực sự” trong công tác cán bộ; đổi mới cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá, phân loại cán bộ, công chức phù hợp với vị trí việc làm và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể. Cơ chế đào tạo, tập hợp và trọng dụng nhân tài đó trong tương lai phải bao hàm những khía cạnh như: “Tạo sự di chuyển chất xám tự do” trong thị trường lao động, thỏa mãn các điều kiện nuôi dưỡng tốt nhất cho nhân tài, bảo đảm nguyên tắc “người nào - việc nấy”, đề cao trách nhiệm cá nhân và năng lực sáng tạo cao nhất, để những người xứng đáng nhất cả về tài và đức được lựa chọn vào những vị trí quan trọng trong bộ máy công quyền. Trọng dụng, bảo vệ và “nuôi dưỡng” những lãnh đạo và nhân tài “đầu đàn xuất sắc”, không phân biệt thành phần xuất thân; tái lựa chọn liên tục, lấy hiệu quả công việc làm cơ sở đánh giá và lựa chọn thay vì bằng cấp, học vị, chức tước… “Di huấn” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại vẫn còn nguyên “giá trị thời sự”, đó là “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém…”.

Ngày 04-5-2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Chính phủ đẩy mạnh việc chuyển phương thức chỉ đạo điều hành từ mệnh lệnh hành chính sang Chính phủ kiến tạo và phục vụ”. Bởi vì, tăng trưởng xét đến cùng là công việc của người dân và doanh nghiệp, nhiệm vụ của Chính phủ và địa phương là tạo tiền đề để người dân, doanh nghiệp có thể làm ăn ổn định, phát triển và tạo ra tăng trưởng. Đây chính là bản chất của Chính phủ kiến tạo. Mặt khác, “dân giàu" thì "nước mạnh” và để người dân làm giàu thì phải có một “Nhà nước, Chính phủ kiến tạo, liêm chính” nhằm xây dựng một nền kinh tế thị trường lành mạnh, khuyến khích người dân, doanh nghiệp làm giàu hợp pháp. Như vậy, có thể thấy, chuyển từ mô hình điều hành nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính sang kiến tạo phát triển đồng nghĩa với việc thay đổi sâu sắc tư duy về mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Và để có một Nhà nước, Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ, phải có những điều chỉnh lớn mang tính “cách mạng” đối với thể chế. Thay vì can thiệp vào nền kinh tế bằng những mệnh lệnh hành chính, Chính phủ sẽ phải tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách cho đầu tư phát triển, bảo đảm các điều kiện cần thiết để khuyến khích các bộ phận trong nền kinh tế “phát triển hết tiềm năng”. Và điều này, ở một khía cạnh có thể hiểu là sẽ “không còn sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân” hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cũng sẽ không còn cơ chế "xin - cho", một “căn bệnh trầm kha trong lòng xã hội”.

Chính phủ đã chọn năm 2016 là năm quốc gia khởi nghiệp với mục tiêu tạo điều kiện tốt nhất hỗ trợ người dân tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cũng như thúc đẩy các doanh nghiệp hiện có phát triển mạnh mẽ hơn. Mang tinh thần phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp vào mọi hoạt động điều hành, mô hình “Chính phủ kiến tạo, liêm chính và phục vụ”, theo nhiều nhà phân tích, hứa hẹn sẽ mang đến một cuộc cải cách mới trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng nếu không đổi mới được tư duy của cán bộ, công chức thì khó có thể thay đổi được hiện trạng nền kinh tế. Do vậy, cải cách thể chế nói chung, thể chế kinh tế, chính trị nói riêng phải gắn với công tác cán bộ, tức là vấn đề con người. Chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy phục vụ là đòi hỏi từ thực tiễn và cũng là xu hướng phát triển tất yếu. Vì vậy, mọi quyền hạn trách nhiệm của cán bộ, công chức phải được thể chế hóa trên tinh thần phục vụ người dân, phục vụ doanh nghiệp và xã hội. Không phải “ngẫu nhiên” mà ngay từ những ngày đầu của Chính quyền “non trẻ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng cụm từ “công cụ phục vụ” khi nói tới vị trí, vai trò của Chính phủ và cụm từ “công bộc”, thậm chí “đày tớ” khi nói về thái độ, trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với nhân dân. Đó chính là “tuyên ngôn rõ ràng” về sự công nhận quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, quyền lực cao nhất trong xã hội thuộc về người dân.

Tóm lại, từ Nhà nước dân chủ, nhân dân (Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) với một “Chính phủ phục vụ” người dân đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân (Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) với một “Chính phủ kiến tạo” đều có một “mẫu số chung” là “từ nhân dân mà ra và vì nhân dân mà phục vụ”. “Nhà nước hay Chính phủ kiến tạo” suy đến cùng bản chất không phải là một loại hình nhà nước nào khác mà chính là thực hiện “cho đúng, cho đủ” những chức năng, nhiệm vụ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế mà ở nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.

Lịch sử và thực tiễn dân tộc ta đã chứng minh rằng khi nào mà nhà nước và cán bộ, công chức đứng về phía nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích chính đáng của người dân thì khi đó đất nước sẽ hưng thịnh và ngược lại có khi bị thôn tính trở thành thuộc địa và người dân rơi vào “cảnh lầm than, kiếp nô lệ”. Trong lịch sử, nhân dân sẵn sàng đi theo “Vua hiền, Tôi giỏi”, bỏ lại “vườn không, nhà trống” để tạo nên những chiến thắng, chiến công oanh liệt khiến kẻ thù xâm lược khiếp sợ trong nhiều thập kỷ. Và trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước, nhân dân đã không tiếc “máu xương” để đi theo Đảng, theo Bác Hồ, theo cách mạng tạo nên những chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Vậy nên, chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền, Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính sẽ cần sự “đồng lòng và quyết tâm hành động nhất quán, triệt để” của cả hệ thống chính trị - xã hội, toàn Đảng, toàn dân, của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và mỗi người dân…/.
------------------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.270

(2) Sđd, t6, tr.232, 515

(3) Sđd, t.12, tr.223

(4) Sđd, t.7, tr.368