Bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người dân
TCCS - Điều 25 Hiến chương Liên hợp quốc năm 1948 chỉ rõ: “Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có một mức tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội bao gồm: ăn, mặc, chăm sóc y tế (gồm cả thai sản), dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc các trường hợp bất khả kháng khác”. Như vậy, việc bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người dân là yêu cầu, điều kiện cần thiết của sự ổn định, phát triển của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo đảm quyền được an sinh xã hội cho người dân
Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng trong lãnh đạo đất nước. Đây là chính sách cơ bản để giảm nghèo, bảo đảm đời sống của nhân dân, thực hiện công bằng, tạo sự đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Ngay từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã coi nhiệm vụ diệt “giặc đói”, “giặc dốt” như diệt giặc ngoại xâm. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có mong ước: Nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tuy nhiên, cụm từ “an sinh xã hội” chính thức được sử dụng tại Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4 - 2001): “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 01-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” - Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương về vấn đề xã hội đã đặt ra yêu cầu phải đặt chính sách xã hội ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa các thế hệ.
Nghị quyết số 15-NQ/TW đặt ra mục tiêu, đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm để người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội và bảo đảm hỗ trợ kịp thời những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu thập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo…), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Theo đó, Hiến pháp năm 2013 cũng đã bổ sung các quyền về an sinh xã hội của người dân. Điều 34 xác nhận “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”; Điều 59 đề ra trách nhiệm “Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội”.
Như vậy, quan điểm của Đảng và nội dung của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm an sinh xã hội cho mọi người dân hướng tới bảo đảm quyền được an sinh xã hội của người dân đã được thể chế hóa, cụ thể như sau:
Một là, hướng tới việc làm bền vững.
Bộ luật Lao động sửa đổi (năm 2012) tiếp tục phát triển thị trường lao động, tăng cường điều kiện hoạt động của các đối tác tham gia thị trường lao động (Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế trên thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm.
Với việc ban hành Luật Việc làm (năm 2013), lần đầu tiên Việt Nam có luật hướng đến khu vực kinh tế phi chính thức, đã tạo điều kiện hỗ trợ lao động nghèo, lao động nông thôn, người thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức. Hiện tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã và đang được xây dựng để đưa Bộ luật Lao động và Luật Việc làm đi vào cuộc sống.
Hai là, tăng cường trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt.
Trong thời gian qua, hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không ngừng được mở rộng, bao phủ các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng sang các đối tượng khác. Mức chuẩn trợ cấp được điều chỉnh tăng, điều kiện hưởng và hình thức hỗ trợ ngày càng đa dạng. Nguồn lực thực hiện chính sách trợ giúp xã hội được đa dạng, kết hợp ngân sách địa phương và của xã hội. Các hình thức trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hằng tháng, tiền nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội; hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch…
Ba là, phát triển và thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách, về cơ bản đã tạo khuôn khổ pháp luật cho toàn bộ người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và đa số người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi (năm 2014) mở rộng diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng bảo hiểm xã hội; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; hỗ trợ, khuyến khích người lao động nghèo, khu vực phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội; hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Luật Việc làm (năm 2013) mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp).
Bốn là, hướng tới giảm nghèo toàn diện và bền vững.
Chính sách giảm nghèo tiếp tục được hoàn thiện theo hướng: tăng cường hỗ trợ người nghèo toàn diện; tiếp cận giảm nghèo đa chiều; tập trung giảm nghèo cho đồng bào dân tộc, các vùng nghèo, huyện nghèo; cải cách, đổi mới thể chế chính sách, nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình giảm nghèo; cải cách quản lý, thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững.
Nhà nước đã ban hành rất nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo về giáo dục - đào tạo; tiếp cận y tế; hỗ trợ đối với hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia bảo hiểm y tế; sửa đổi chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo về mức vay và lãi suất vay; với hộ cận nghèo, được sửa đổi theo hướng kéo dài thời gian cho vay đối với hộ mới thoát nghèo; chính sách đào tạo nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động tiếp tục được hoàn thiện, trong đó ưu tiên cho hộ nghèo dân tộc thiểu số, hộ sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã nghèo; hỗ trợ về nhà ở, tiền điện cho hộ nghèo.
Một số kết quả đạt được
- Về giải quyết việc làm: Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề mỗi năm đã tạo việc làm cho khoảng 320.000 người; nhiều người khuyết tật, người dân tộc, người ở vùng bị chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp đã được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm. Năm 2015, đã giải quyết việc làm cho 1.625.000 người (1.510.000 việc làm trong nước và trên 110.000 việc làm có thời hạn ở nước ngoài); tỷ trọng lao động trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn 42,54%; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động duy trì ở mức thấp 2,31% (tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 3,29%; trong thanh niên là 6,85%).
- Về giảm nghèo: Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm còn dưới 5% đến cuối năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo còn dưới 28% năm 2015.
- Về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp: Đến cuối năm 2015, có 12.166.000 lao động (chiếm 24,1% lực lượng lao động) tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó bảo hiểm xã hội bắt buộc có 11.912.000 người và bảo hiểm xã hội tự nguyện có 254.000 người. Tổng số người được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội hằng tháng là 2.800.000 người. Có 10.185.000 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 20,2% lực lượng lao động. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã chi 4.800 tỷ đồng cho hơn 600.000 người.
- Về trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: Đến cuối năm 2015, Chính phủ đã hỗ trợ hơn 31.000 tấn gạo cứu đói cho gần 2.100.000 lượt người ở 21 tỉnh, tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Bình Định, Quảng Bình. Đã trợ cấp tiền mặt hằng tháng và cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trên 2.643.000 đối tượng (37.348 trẻ mồ côi, 88.594 người đơn thân nuôi con thuộc hộ nghèo, 1.480.000 người trên 80 tuổi, 896.644 người khuyết tật, 69.257 gia đình, cá nhân chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng, 8.185 người có HIV thuộc hộ nghèo). Cả nước hiện có 408 cơ sở trợ giúp xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc trên 41.400 đối tượng, trong đó số đối tượng bị khuyết tật, tâm thần chiếm tới 56,5%.
- Về bảo đảm giáo dục tối thiểu: Đến năm 2015, tỷ lệ trẻ 5 tuổi học mầm non đạt 97,93%; trẻ dưới 4 tuổi học mầm non đạt 86,61%; đi học tiểu học đúng tuổi đạt 98,69%, đi học trung học cơ sở đúng tuổi đạt 90,89%; tỷ lệ học sinh đạt trình độ phổ thông trung học là 62%; tỷ lệ trẻ khuyết tật đi học đạt 60%; số sinh viên trên một vạn dân đạt 250 người; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 tuổi trở lên đạt 99%. Hiện cả nước có 1.467 cơ sở dạy nghề (190 trường cao đẳng nghề; 280 trường trung cấp nghề; 997 trung tâm dạy nghề và hơn 1.000 cơ sở có dạy nghề); tuyển sinh gần 2.000.000 người; hỗ trợ khoảng 550.000 người học nghề. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 51%, trong đó qua đào tạo nghề đạt 38,5%.
- Về bảo đảm y tế tối thiểu: Đến năm 2015, có 98,4% số xã có trạm y tế xã hoạt động; 96% số thôn, bản có nhân viên y tế thôn, bản, có 80% số xã có bác sĩ, 50% số xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã; trên 95% số xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh; bảo hiểm y tế đã chi trả chi phí để phụ nữ khi có thai được khám thai, sinh đẻ tại các cơ sở y tế.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em thể nhẹ cân còn khoảng 14,1%; thể thấp còi còn 24,2%; tỷ lệ tử vong bà mẹ giảm xuống 58,3 trên 100.000 trẻ đẻ sống, giảm tử vong ở trẻ em dưới 1 tuổi xuống 14,7‰. Tỷ lệ phụ nữ đẻ được khám thai ít nhất 3 lần đạt trên 90%, tỷ lệ phụ nữ đẻ do cán bộ y tế qua đào tạo đỡ đạt 98%, tỷ lệ bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc tuần đầu sau sinh đạt 81%. Hiện có gần 70.000.000 người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 76% dân số, trong đó, số người thuộc hộ nghèo và dân tộc thiểu số là 11.796.000 người, số người thuộc hộ cận nghèo là 2.992.000 người.
- Về bảo đảm nhà ở tối thiểu: Sau 3 năm thực hiện, đến năm 2015, đã hỗ trợ 7.600 hộ nghèo xây dựng nhà ở phòng tránh bão lụt tại 7 tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung. Với Chương trình phát triển nhà ở xã hội dành cho công nhân khu công nghiệp, đã xây dựng 28.550 căn hộ và đang tiếp tục xây dựng 69.300 căn hộ. Với Chương trình nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị, đã xây dựng 25.850 căn hộ và tiếp tục xây dựng khoảng 61.290 căn hộ. Với Chương trình nhà ở cho học sinh, sinh viên được đầu tư bằng trái phiếu chính phủ, đã bố trí nhà ở cho 200.000 sinh viên, đạt tỷ lệ bình quân 80% nhu cầu.
- Về bảo đảm nước sạch: Đến hết năm 2015 đã xây dựng được hơn 1.000 công trình nước sạch tập trung, nâng tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh lên 86%, được sử dụng nước sạch theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế lên 45%.
- Về bảo đảm thông tin: Sau hơn 3 năm thực hiện, tỷ lệ xã có điểm truy cập điện thoại công cộng đạt 97%; có đường truyền cáp quang đến xã đạt 96%; có đường truyền cáp đồng đạt 90%. Mạng lưới bưu chính được duy trì với khoảng 16.000 điểm giao dịch, trong đó có khoảng 7.640 điểm bưu điện văn hóa xã.
Chương trình tăng cường nội dung thông tin và truyền thông về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo đã phát sóng 4.195 chương trình phát thanh, truyền hình; đặt hàng các nhà tổ chức sáng tác, xuất bản, in và phát hành 1.327.631 bản sách chuyên đề cung cấp và quảng bá đến các xã; tổ chức sáng tác, xuất bản và in, phát hành và quảng bá 1.378.933 ấn phẩm truyền thông phổ biến kiến thức về nông nghiệp, chăm sóc sức khỏe; thiết lập 7 cụm thông tin đối ngoại tại các khu vực cửa khẩu quốc tế; cấp miễn phí 24 loại ấn phẩm báo, tạp chí cho đồng bào vùng dân tộc thiếu số, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn với trên 40 triệu ấn phẩm.
Một số thách thức đối với việc bảo đảm an sinh xã hội hiện nay
Thứ nhất, một số chỉ tiêu không hoàn thành so với mục tiêu đề ra của Nghị quyết. Mặc dù đã thu được một số kết quả rất đáng khích lệ, song chúng ta vẫn chưa hoàn thành một số chỉ tiêu cụ thể, như tỷ lệ việc làm trong nông nghiệp, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp; một số chỉ tiêu về y tế, giáo dục; chỉ tiêu về tiếp cận nước sạch.
Thứ hai, chất lượng thực hiện các mục tiêu chưa cao. Chất lượng việc làm còn thấp; tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp còn cao; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, mức chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư có xu hướng gia tăng; tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tăng chậm; chất lượng phổ cập giáo dục còn chênh lệch, đặc biệt với nhóm trẻ em dân tộc thiểu số, hộ nghèo và vùng đặc biệt khó khăn; tuyển sinh cao đẳng nghề, trung cấp nghề gặp nhiều khó khăn; vẫn còn gần 25% dân số chưa tham gia bảo hiểm y tế; chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở chậm được triển khai; tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn quốc gia còn thấp.
Thứ ba, hệ thống chính sách an sinh xã hội còn cồng kềnh, chồng chéo. Hiện nay có khoảng 233 văn bản chính sách do Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, cơ quan khác nhau ban hành và tổ chức thực hiện. Do quá nhiều chính sách, lại được ban hành ở nhiều giai đoạn khác nhau, áp dụng cho nhiều nhóm đối tượng rộng, hẹp khác nhau nên chồng chéo, thiếu tính hệ thống, gây khó khăn cho việc áp dụng chính sách, quản lý đối tượng. Chủ trương tích hợp hệ thống chính sách cũng như việc lồng ghép thực hiện chính sách cho cùng một nhóm hưởng thụ cũng chưa triển khai được.
Thứ tư, một số chương trình an sinh xã hội chưa thực sự hiệu quả. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, các chương trình trợ giúp xã hội còn phân tán về đối tượng, kinh phí, tổ chức thực hiện. Công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách về an sinh xã hội ở một số địa phương còn yếu, hình thức thông tin, tuyên truyền chưa hiệu quả. Chương trình giảm nghèo chưa khuyến khích người dân tự an sinh, người nghèo tự vươn lên thoát nghèo.
Thứ năm, việc bảo đảm an sinh tối thiểu cho người dân gặp nhiều khó khăn, thách thức, do số lượng các chương trình an sinh xã hội hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu về an sinh của người dân; phạm vi bao phủ của chính sách an sinh xã hội bị hạn hẹp, chỉ phục vụ cho một nhóm dân cư, thông thường là nhóm dân cư “khỏe hơn, tốt hơn” trong xã hội; tài chính hạn chế và sự phân bố tài chính thiếu hợp lý giữa các chương trình; các công cụ, chính sách thiếu nhạy bén, đặc biệt trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, tác động của cải cách kinh tế và biến đổi khí hậu.
Thứ sáu, sự tham gia của cơ quan, đoàn thể và xã hội, huy động nguồn lực cho thực hiện chính sách chưa tốt, còn phân tán. Nhận thức về vai trò của an sinh xã hội của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên, tổ chức, doanh nghiệp và người dân chưa đúng và chưa đầy đủ, còn tư tưởng trông chờ vào Nhà nước, vào Trung ương về chính sách và kinh phí. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, luật pháp, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện an sinh xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Công tác xã hội hóa, huy động sự tham gia đóng góp của khu vực tư nhân còn nhiều bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng tham gia của người dân, doanh nghiệp và các đối tác xã hội.
Phương hướng hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội phù hợp với phát triển kinh tế và bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người dân
Một là, tiếp tục cải cách thể chể kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm mục tiêu tăng trưởng GDP trong thời gian tới trên 6,5%/năm để có thêm nguồn lực dành cho an sinh xã hội.
Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để các cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển xã hội trong tình hình mới, coi đây là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài. Phối hợp tốt hơn với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội trong hoạt động truyên truyền, giáo dục và giám sát, đánh giá.
Ba là, tiếp tục rà soát các chính sách xã hội hiện hành để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng của người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội;
Bốn là, phát triển thị trường lao động, việc làm bền vững; kết nối cung cầu lao động; phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa để tạo việc làm và chuyển dịch cơ cấu việc làm; tăng cường đối thoại lao động, bảo đảm tiêu chuẩn lao động; tăng cường đào tạo và phát triển kỹ năng cho người lao động, hoàn thiện chương trình đào tạo nghề cho nông dân nông thôn; triển khai chương trình việc làm công tạo thu nhập tạm thời ở mức tối thiểu cho lao động nghèo, người thất nghiệp.
Năm là, cải cách chính sách trợ giúp xã hội. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; có lộ trình tiếp tục giảm độ tuổi hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng, mở rộng chính sách trợ giúp xã hội đối với toàn bộ người nghèo, người cận nghèo, người dân tộc thiểu số; tiếp tục tăng mức hưởng trợ cấp thường xuyên, tách bạch nhiệm vụ quản lý nhà nước với dịch vụ chi trả; tích hợp chi trả một lần cho nhiều chính sách khác nhau đối với cùng nhóm đối tượng; nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất; tiếp tục tuyên truyền, vận động và tổ chức tốt các phong trào “tương thân, tương ái”; mở rộng sự tham gia hỗ trợ của cộng đồng, bảo đảm người dân bị thiệt hại khi gặp rủi ro, thiên tai được hỗ trợ kịp thời.
Sáu là, đổi mới chính sách giảm nghèo, từ tiếp cận đơn chiều (dựa vào thu nhập) sang đa chiều (dựa vào các yếu tố khác ngoài thu nhập); tập trung nguồn lực trước hết vào thực hiện ở những nơi khó khăn nhất, nghèo nhất để giảm nghèo bền vững.
Bảy là, mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, tăng cường chế tài xử phạt không tuân thủ, hỗ trợ người phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội); thực hiện cải cách bảo hiểm xã hội để bảo đảm bền vững quỹ và hỗ trợ người nghèo tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. Bảo đảm chi ngân sách nhà nước về an sinh xã hội đạt mức trung bình khu vực Đông Nam Á (7% GDP). Tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, như nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA), các chương trình viện trợ không hoàn lại của nước ngoài, nguồn lực xã hội từ các doanh nghiệp, tổ chức và nhân dân, trong đó nguồn lực của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo./.
Hợp tác văn hóa Việt Nam - ASEAN  (22/07/2016)
Cảnh quan văn hóa tâm linh Yên Tử  (22/07/2016)
Cảnh quan văn hóa tâm linh Yên Tử  (22/07/2016)
Cảnh quan văn hóa tâm linh Yên Tử  (22/07/2016)
Cảnh quan văn hóa tâm linh Yên Tử  (22/07/2016)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển