TCCS - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng đất nước, Đảng ta luôn coi trọng mục tiêu giải phóng phụ nữ, thực hiện nam nữ bình đẳng. Thực hiện mục tiêu trên có nhiều nội dung, nhưng một trong những nội dung hết sức quan trọng là làm thế nào để phụ nữ có được tỷ lệ tương ứng với vai trò và nguồn lực lao động nữ trong xã hội.

Về tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt ở cấp xã

Một tiêu chí quan trọng về vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay là, cần tăng cường tỷ lệ nữ trong các cấp ủy. Song nhiệm kỳ 2001 - 2006, tỷ lệ nữ ở các cấp ủy cũng chỉ đạt khoảng 8,8% đến 12,79%, đây là một tỷ lệ còn rất thấp so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra. Đối với các vùng nông thôn, tỷ lệ cán bộ nữ trong đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp xã cũng còn thấp. Kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2006 cho thấy, nữ cán bộ chủ chốt chỉ chiếm 3,91% trong tổng số cán bộ chủ chốt của cấp xã, trong đó cao nhất là các xã hải đảo với 7,10% và thấp nhất là các xã vùng cao với 3,28%. Đáng chú ý, tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt ở các xã vùng đồng bằng có tỷ lệ chỉ cao hơn một chút so với tỷ lệ chung (4,03% và 3,91%) và chỉ bằng 56,76% so với các xã hải đảo. Phải chăng, các xã vùng đồng bằng - là địa phương có sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục cao hơn các vùng khác - lại thiếu sự quan tâm của các cấp ủy và chính quyền hay chưa có nhận thức đúng về công tác cán bộ nữ? Điều mà lẽ ra, với những thuận lợi của vùng phát triển thì phụ nữ được tạo điều kiện tham gia hoạt động xã hội và quản lý, lãnh đạo các cấp nhiều hơn các vùng miền núi, hải đảo.

Nếu xem xét hai chức danh chủ chốt đứng đầu của xã là bí thư đảng ủy và chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thì chúng ta thấy, tỷ lệ nữ bí thư đảng ủy xã chỉ có 3,18% và nữ chủ tịch xã còn thấp hơn, với 2,09%. Như thế, cứ 100 xã thì có chỉ 3 nữ bí thư đảng ủy và 2 nữ chủ tịch ủy ban nhân dân. Một con số quá ít ỏi không tương xứng với nguồn nhân lực nữ trong nông thôn, nông nghiệp và nông dân hiện nay.

Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ cán bộ chủ chốt cấp xã

Nhận thức của các cấp ủy về công tác cán bộ nữ. Nhận định về công tác phụ nữ trong thời gian qua, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đã đánh giá rằng: "Phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý có tỷ lệ thấp, chưa tương xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ, nguồn cán bộ nữ hẫng hụt, ở một số lĩnh vực, tỷ lệ cán bộ nữ sụt giảm". Nguyên nhân chủ yếu là do:

Các kết quả nghiên cứu cho thấy những nguyên nhân chủ yếu khiến nữ giới còn ít tham gia lãnh đạo, quản lý là: a) định kiến giới; b) ảnh hưởng của các nhân tố bản thân (sức khỏe, trình độ, thời gian làm việc, tính cách, gia đình...); c) tác động của Nhà nước, xã hội: tổ chức, cấp trên, đồng nghiệp, ...

Nhận thức của các cấp ủy, chính quyền ở nhiều địa phương, đơn vị về bình đẳng giới, về vai trò, năng lực của phụ nữ còn hạn chế.

Nhiều cấp ủy, chính quyền thiếu quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương của Đảng về công tác vận động phụ nữ, chưa chủ động nghiên cứu, dự báo và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh liên quan tới phụ nữ. Chủ trương công tác cán bộ nữ chưa được quán triệt, thực hiện đầy đủ trong quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, đề bạt cán bộ, còn có biểu hiện "khoán trắng" công tác phụ nữ cho Hội Phụ nữ.

Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về công tác phụ nữ, cán bộ nữ chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ.

Các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ chưa giải quyết tốt một số vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là những vấn đề xã hội bức xúc liên quan tới phụ nữ; việc tham mưu, đề xuất với Đảng và Nhà nước về công tác phụ nữ trong từng thời kỳ còn rất hạn chế.

Định kiến giới. Đề cập đến hạn chế này, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị đánh giá "Định kiến về giới còn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu đời". Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự đúng đắn của nhận định này. Ví dụ, có quan niệm lãnh đạo là công việc không thích hợp với phụ nữ, vẫn còn tư tưởng coi thường khả năng của phụ nữ, nhất là coi thường khả năng lãnh đạo và quản lý của chị em, ít chú trọng sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ một cách chủ động và có kế hoạch. Bên cạnh đó, có tư tưởng không muốn làm việc dưới sự lãnh đạo của cán bộ nữ, chỉ phục tùng nam, không phục tùng nữ, trong cán bộ, nhất là trong nam giới, những biểu hiện "níu áo nhau" khi phụ nữ được đề bạt, nhất là trong một số cán bộ nữ. Tư tưởng phong kiến, gia trưởng, coi thường phụ nữ trong một số đảng viên, trong một bộ phận xã hội và gia đình còn khá nặng.

Trở ngại từ phụ nữ và vai trò giới. Một bộ phận phụ nữ còn tự ti, an phận, chưa chủ động vượt khó vươn lên. Trong nội bộ phụ nữ còn có tình trạng níu kéo, chưa ủng hộ nhau. Nhiều phụ nữ, nhất là phụ nữ ở miền núi, vùng nông thôn hẻo lánh, mù chữ, tái mù chữ và học vấn thấp còn nhiều. Phụ nữ còn bị phân biệt đối xử dưới nhiều hình thức. Phụ nữ còn là nạn nhân của nhiều tệ nạn xã hội đang có chiều hướng phát triển như: mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, mê tín dị đoan... Những khó khăn trên đây đang ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của phụ nữ thế hệ tương lai.

Bên cạnh đó, các vai trò giới cũng là một trở ngại đối với phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Nếu như với nam giới, khi tham gia hoạt động xã hội, là cán bộ quản lý, lãnh đạo thì được sự ủng hộ và tạo điều kiện của vợ và các thành viên khác trong gia đình, thêm nữa nam giới ít hoặc không phải lo công việc nội trợ. Đối với nữ giới thì ngược lại, khi tham gia công tác xã hội với vai trò cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cấp nào thì họ vẫn phải làm tốt các vai trò "người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người", nếu không được sự ủng hộ của chồng, con thì trở ngại càng tăng thêm đối với phụ nữ.

Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng miền. Theo quy luật, những vùng, miền có sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cao thì sẽ kéo theo sự phát triển về trình độ dân trí, về nhận thức trong đó có nhận thức về bình đẳng giới. Và điều này sẽ tác động tích cực đến mức độ tham gia của cán bộ nữ vào các cấp lãnh đạo ở cơ sở.

So sánh giữa các tỉnh, thành phố có chỉ số phát triển con người và chỉ số phát triển giới ở nước ta với tỷ lệ phụ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009 cho thấy sự tham gia của cán bộ nữ khác nhau theo các vùng, miền. Trong 10 tỉnh, thành phố có chỉ số HDI và GDI cao nhất nước thì, các thành phố trực thuộc trung ương là Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã cao nhất, tiếp theo là Đồng Nai, Hải Dương, Hải Phòng rồi mới đến Bà Rịa - Vũng Tàu. Rõ ràng, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội chưa hẳn là yếu tố quyết định tỷ lệ nữ tham gia HĐND cấp cơ sở. Điều này càng được khẳng định khi chúng ta so sánh 10 tỉnh, thành có chỉ số HDI và GDI thấp nhất nước với tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009, sẽ thấy không phải chỉ ở các địa phương phát triển kinh tế - xã hội thì mới có nhiều phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý. Số liệu cho thấy, Lai Châu là địa phương đứng cuối bảng xếp hạng về HDI và GDI của cả nước (năm 2001) nhưng lại có vị trí cao nhất về tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã, trong khi Bắc Cạn là địa phương có vị trí cao hơn thì tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã lại đứng thứ 7 trong nhóm.

Khi so sánh các tỉnh có chỉ số HDI và GDI thấp nhất nước với tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2005 - 2009 sẽ thấy không phải chỉ những địa phương phát triển kinh tế - xã hội mới có nhiều nữ tham gia lãnh đạo, quản lý.

Số liệu thống kê về tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2004 - 2009 cho thấy, trong 64 tỉnh, thành phố thì có 10 tỉnh, thành phố có kết quả tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã cao nhất theo thứ tự là: 1) Thành phố Hồ Chí Minh, 2) Hà Nội, 3) Tuyên Quang, 4) Lai Châu, 5) Đà Nẵng, 6) Phú Thọ, 7) Hưng Yên, 8) Yên Bái, 9) Điện Biên, 10) Hà Nam.

Như vậy có 5/10 tỉnh thuộc miền núi, vùng cao là những địa phương thuộc diện kém phát triển không chỉ về kinh tế - xã hội mà còn thấp cả về chỉ số phát triển con người, chỉ số phát triển giới nhưng lại có tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp xã vào hàng "Top ten".

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ và công tác cán bộ nữ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và từng gia đình. Đường lối giải phóng phụ nữ, bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ đã được thể chế hóa và cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật, chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đây là một nhân tố quan trọng quyết định những thành tựu về bình đẳng giới ở nước ta. Tỷ lệ nữ trong các cơ quan dân cử (Hội đồng nhân dân các cấp) ngày càng tăng, nhiệm kỳ 2004 - 2009 cao hơn so với nhiệm kỳ trước, là một minh chứng sinh động. Ví dụ: cấp tỉnh, thành phố đạt 23,8%; cấp huyện đạt 23,2% và cấp xã, phường đạt 20,1%. Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam là "Quốc gia đạt được sự thay đổi nhanh chóng nhất trong xóa bỏ khoảng cách giới trong vòng 20 năm trở lại đây ở khu vực Đông Á" hơn nữa "Việt Nam được xem như một trong những nước tiến bộ hàng đầu về lĩnh vực bình đẳng giới". Có được thành tựu nổi bật này về bình đẳng giới ở nước ta, theo các nhà tài trợ điều này "Phản ánh nỗ lực đáng kể của đất nước trong xóa đói giảm nghèo và cam kết của Chính phủ tiến tới bình đẳng giới". Đồng thời, các nhà tài trợ cũng dự báo và tin tưởng vào triển vọng của bình đẳng giới ở nước ta "Với việc các kế hoạch quốc gia khi xây dựng có chú ý đến vấn đề giới, chắc chắn vấn đề bình đẳng giới sẽ đạt được các bước tiến xa hơn nữa". (WB, ADB, CIDA, và DFID, 2006).

Trong chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 đã đề ra chỉ tiêu phấn đấu đạt tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI (2002 - 2007) là 30% và nhiệm kỳ tiếp theo là 33% trở lên, nữ đại biểu hđnd nhiệm kỳ 2004 - 2009 cấp tỉnh, thành là 28% và nhiệm kỳ tiếp theo là 30%, cấp huyện 23% và nhiệm kỳ tiếp theo là 25%; cấp xã, phường 18% và nhiệm kỳ tiếp theo là 20%.

Tuy nhiên, trong thực tế, nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc đưa phụ nữ tham gia vào đời sống chính trị và cộng đồng còn hạn chế; thiếu các cơ chế và điều kiện thuận lợi để phụ nữ thực hiện được đầy đủ quyền bầu cử, ứng cử của mình; bản thân phụ nữ, nhất là phụ nữ ở các vùng nông thôn, dân tộc thiểu số, còn thiếu tự tin và ít được gia đình ủng hộ tham gia ứng cử. Vì vậy, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần thực hiện các giải pháp đồng bộ và tích cực để tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các cơ quan dân cử. Kinh nghiệm từ kết quả dự án "Tăng tỷ lệ nữ tham gia Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 - 2009" cho thấy, một khi công tác cán bộ nữ được quan tâm, đầu tư đúng mức và có cơ chế phù hợp, thì sẽ tăng được tỷ lệ cán bộ nữ ở các cấp. Dự án này cho thấy, so với nhiệm kỳ 1999 - 2004, thì 16/17 tỉnh được hưởng thụ dự án đều tăng tỷ lệ nữ đại biểu HĐND ở ba cấp. Tuyên Quang là một tỉnh miền núi còn nghèo, với 22 dân tộc thiểu số, nhưng có tỷ lệ đại biểu nữ cao nhất 33,3%. Điều đó cho thấy, điều kiện kinh tế không phải là yếu tố quyết định tới khả năng tham gia lãnh đạo của phụ nữ, mà điều cốt yếu nhất là quyết tâm chính trị, sự chỉ đạo và quan tâm của các cấp, các ngành chức năng trong công tác quy hoạch và đào tạo phụ nữ.

Với không ít phụ nữ, sự mặc cảm, tự ti là bạn đồng hành của sự an phận. Sự an phận này cũng có thể xuất phát từ nhận thức không đúng về vai trò giới trong gia đình và ngoài xã hội. Lãnh tụ Hồ Chí Minh hiểu rất rõ sức cản của những thói quen, quan niệm đã ăn sâu vào tiềm thức con người không dễ gì ngày một ngày hai có thể thay đổi. Vì vậy, trước khi "nhẹ bước tiên" đi vào cõi vĩnh hằng, trong Di chúc để lại, Người vẫn dặn dò phụ nữ Việt Nam "Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ". Do vậy, bản thân cán bộ nữ cần chủ động khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu, nâng cao phẩm chất và trình độ mọi mặt, tự khẳng định mình trong công tác, biết kết hợp hài hòa giữa công việc gia đình và công tác xã hội.

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của nhà nước, của xã hội, song lực lượng phụ nữ, trong đó đội ngũ xung kích là lực lượng cán bộ nữ ở tất cả các lĩnh vực, cần phát huy vai trò chủ động của mình; phong trào phụ nữ càng phát triển thì đội ngũ cán bộ nữ càng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ, và ngược lại, sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ sẽ có tác động lớn đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ và phải là đội ngũ đi đầu phong trào phụ nữ. Vấn đề cán bộ nữ phải được đặt ra gắn liền với yêu cầu của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và phải được các cấp ủy và chính quyền nhận thức đúng và quan tâm giải quyết một cách tích cực nhất. Có như vậy, mới có thể nâng cao tỷ lệ nữ cán bộ cơ sở nói riêng và tỷ lệ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong các cấp, các ngành nói chung./.