Quan hệ kinh tế Việt Nam - EU năm 2010: điểm tựa cho các năm tới
TCCSĐT - Năm 2010 đánh dấu 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - EU và 15 năm Hiệp định khung về hợp tác giữa hai bên được ký kết. Năm 2010 cũng là năm quan hệ kinh tế Việt Nam - EU phát triển trong bối cảnh thuận lợi hơn so với năm trước. Với cương vị Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng thúc đẩy hợp tác Á - Âu, góp phần tăng cường quan hệ kinh tế Việt Nam - EU. Đồng thời, sau khi Hiệp định Li-xbon có hiệu lực, EU nói chung và các nước thành viên EU nói riêng quan tâm hơn đến lợi ích chính đáng của các nền kinh tế đang phát triển và hội nhập tích cực vào kinh tế thế giới, trong đó có Việt Nam.
1. Xuất khẩu sang EU tăng và nhập khẩu từ EU giảm
Xuất khẩu
Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU đạt 12 tỉ USD, tăng 2,62 tỉ USD, bằng 27,9%, so với năm 2009 (9,37 tỉ USD) và chiếm trên 90% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu nói chung. Các nước có kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nhiều nhất của EU trong năm là Vương quốc Anh, CHLB Đức và Hà Lan: trên 1 tỉ USD; Tây Ban Nha, I-ta-li-a, CH Pháp: gần 1 tỉ USD; Bỉ: trên 700 trăm triệu USD.
EU trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam trong năm sau Mỹ (12,8 tỉ USD), vượt cả Nhật Bản (6,9 tỉ USD), các nước ASEAN (9,3 tỉ USD) và gấp hơn 1,65 lần Trung Quốc (6,3 tỉ USD).
Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU chủ yếu là hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, khoáng sản (than đá) và hàng tiêu dùng sử dụng nhiều lao động như: đồ gỗ, hàng thủ công mỹ nghệ… với chất lượng, mẫu mã và tiêu chuẩn phù hợp với người tiêu dùng châu Âu.
EU là thị trường nhập khẩu giày dép lớn của Việt Nam trên thế giới và được coi là thị trường lớn nhất với 2 tỉ USD trong năm 2010, vượt Hoa Kỳ (1,3 tỉ USD), vượt xa Nhật Bản (115 triệu USD). Giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU có 33 mã hàng giày thể thao và giày, mũ da được hưởng ưu đãi thuế quan của EU nên khá thuận lợi so với các mặt hàng khác.
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào EU tiếp tục tăng cao, năm 2010 đạt 1 tỉ USD, tăng 27% so năm 2009 và đứng thứ 1, vượt cả Hoa Kỳ (864 triệu USD) và vượt Nhật Bản. Các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường này chủ yếu là tôm, mực đông lạnh, cá tra, cá ba sa...
Hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường EU năm 2010 tăng 12% (đạt 1,64 tỉ USD) so với năm 2009. EU là thị trường lớn thứ 2 về xuất khẩu dệt may của Việt Nam, sau Hoa Kỳ (5,5 tỉ USD), gấp hơn 2 lần Nhật Bản (648 triệu USD). Trong điều kiện phải cạnh tranh gay gắt với hàng dệt may của Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan... kết quả đó là đáng ghi nhận.
Năm 2010, dù tiêu dùng của dân cư các nước EU có giảm nhưng EU vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với cà phê Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cà phê sang EU năm 2010 đạt 815 triệu USD, chiếm gần 46% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm của Việt Nam (1.763 triệu USD). Các nước nhập khẩu cà phê Việt Nam nhiều trong EU là Đức, Pháp, Anh, Thụy Điển, Áo...
EU là thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới nên trong năm 2010 các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam đã khai thác tốt thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 594 triệu USD, chiếm 17,43% tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này cả năm (3.408 triệu USD). Đồ gỗ Việt Nam đã xâm nhập vào thị trường hầu hết các nước EU, trong đó có: Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch. Mặt hàng đồ gỗ ngoài trời là mặt hàng thích hợp đối với thị trường EU.
Bên cạnh các mặt hàng truyền thống, năm 2010 có thêm một số mặt hàng tiêu dùng chất lượng cao xuất khẩu sang EU như xe đạp, máy tính, điện tử... thông qua liên doanh, gia công cho các doanh nghiệp EU. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU năm 2010 đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng hàng hoá chất lượng cao, thực phẩm sạch, thủ công mỹ nghệ, giảm tỷ trọng hàng chất lượng trung bình, hàng nông sản thô... đáp ứng yêu cầu của thị trường tiêu dùng vốn rất khó tính này.
Xuất khẩu sang EU đạt được kết qủa trên là do sau khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), một số rào cản kỹ thuật, các vụ kiện bán phá giá và những quy định bất bình đẳng trước đây được bãi bỏ hoặc hạn chế. Số doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp thuỷ sản đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU tăng do chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm của hàng hóa tăng. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu vào thị trường này trong những năm tới.
Tuy nhiên, phân tích kỹ hơn nữa, có thể thấy, việc xuất khẩu sang thị trường EU năm 2010 cũng còn nhiều hạn chế. EU có dân số hơn 500 triệu người, nhiều gấp hơn 2 lần so với Hoa Kỳ, nhưng kim ngạch xuất khẩu sang EU chỉ bằng 93,8% của Hoa Kỳ. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều thấp hơn so với tiềm năng, nhất là thuỷ sản, dệt may, giày dép, đồ gỗ, thực phẩm, cà phê, chè... Giá cả và thị trường thuỷ sản nói chung, mặt hàng cá tra nói riêng xuất khẩu vào EU không ổn định. Một số rào cản kỹ thuật không phù hợp của EU đối với mặt hàng cá tra của Việt Nam (như đưa cá tra vào danh sách thực phẩm không an toàn) đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất trong nước, cụ thể diện tích nuôi cá tra giảm 5%, sản lượng giảm gần 2% so với năm 2009, sản lượng và giá cá tra xuất khẩu sang EU cũng giảm. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU chỉ chiếm 14,68% tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm; kim ngạch xuất khẩu giày dép năm 2010 tuy tăng 8% nhưng còn thấp xa so với tiềm năng.
Nhiều nước trong EU có quan hệ kinh tế truyền thống với Việt Nam như các nước Đông Âu, song kim ngạch lại rất hạn chế và tăng chậm. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 sang Ru-ma-ni chỉ đạt 69,3 triệu USD, Bun-ga-ri: 85,3 triệu USD, Hung-ga-ri: 33,6 triệu USD, Xlô-ven-ni-a: 21,38 triệu USD, Lít-va: 8,7 triệu USD, E-xtô-ni-a: 6,2 triệu USD, Séc: 117,1 triệu USD, Ba Lan: 117,7 triệu USD... Đó là những con số quá thấp.
Nhập khẩu
Năm 2010 Việt Nam nhập khẩu từ thị trường EU 5,53 tỉ USD, giảm 300 triệu USD so năm 2009 (5,83 tỉ USD), chỉ chiếm 3,44% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước (84 tỉ USD) và bằng 37,9% của khối ASEAN (14,5 tỉ USD), bằng 30% từ Trung Quốc, bằng 68% từ Nhật Bản. Các mặt hàng nhập khẩu từ EU chủ yếu là máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến gắn với việc chuyển giao công nghệ đặc biệt về công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng đạt 1,7 tỉ USD, tân dược 494 tỉ USD. Riêng lúa mì nhập khẩu cả năm lên tới 2.208 nghìn tấn, tăng 60% kim ngạch 588 triệu USD, tăng 70% so năm 2009, chủ yếu từ EU, hóa chất 1,44 tỉ USD, tăng 39%.
Tổng quát lại, quy mô kim ngạch trao đổi thương mại 2 chiều Việt Nam - EU năm 2010 đã lên tới trên 17,73 tỉ USD, tăng gần 2 tỉ USD so năm 2009 và tăng 1,1 tỉ USD so với năm 2008. Xuất siêu của Việt Nam vào thị trường EU năm 2010 lên tới 6,5 tỉ USD, tăng 85% so với năm 2009 - mức cao nhất trong những năm gần đây (năm 2007 đạt 3.948 tỉ USD, năm 2008: 5.314 và năm 2009 là 3.548 triệu USD). Trong bối cảnh các nước EU vừa ra khỏi khủng hoảng kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam mới bắt đầu hồi phục, thì những kết quả đạt được như trên là đáng ghi nhận.
2. FDI và viện trợ phát triển
Năm 2010, EU có 7 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư FDI đăng ký mới vào Việt Nam với 58 dự án và 4,5 tỉ USD, chiếm 26,2% số vốn FDI cả năm và bằng 77,6% năm 2009 (5,8 tỉ USD). Do có ưu thế về công nghệ, máy móc hiện đại, chuyên gia, kỹ thuật viên giỏi, có nhiều kinh nghiệm, các nhà đầu tư EU đã góp phần tích cực trong việc tạo ra một số ngành mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao trong ngành công nghiệp và xây dựng. Năm 2010, các doanh nghiệp đầu tư từ EU đã quan tâm hơn tới các ngành dịch vụ như viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ, bất động sản, tài chính ngân hàng, bảo hiểm…
Các tập đoàn lớn của EU đều đã có mặt tại Việt Nam và đang hoạt động hiệu quả như Shell (Anh), Siemens (Đức), Alcatel (Pháp), BP (Anh), Total Elf Fina (Pháp), Daimler (Đức)…
Số dự án và vốn đăng ký mới từ các nước EU vào Việt Nam năm 2010 tuy có giảm nhẹ so với năm 2009 nhưng vẫn đứng hàng đầu về số vốn so với các đối tác có vốn FDI lớn khác (Hàn Quốc: 2 tỉ USD, Xin-ga-po: 4,3 tỉ USD, Đài Loan: 1,2 tỉ USD, Hồng Kông (Trung Quốc): 154 triệu USD, Nhật Bản: 2,3 tỉ USD và Hoa Kỳ: 1,83 triệu USD). Kết quả này tuy còn nhỏ so với tiềm năng của khu vực chiếm gần 28% GDP của toàn thế giới, nhưng lại là lớn so với Việt Nam. Các dự án thuộc EU vẫn tập trung vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, khách sạn nhà hàng, du lịch và tài chính ngân hàng, là những lĩnh vực EU có thế mạnh..
Cùng với tăng dự án và vốn đầu tư trực tiếp FDI, các doanh nghiệp thuộc các nước EU còn mở rộng hình thức hợp tác liên doanh, liên kết kinh tế trên nhiều lĩnh vực. Năm 2010, nhiều tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp của EU đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các doanh nghiệp Việt Nam. Điển hình là các tập đoàn vận tải biển và kinh doanh tàu vận tải biển nổi tiếng ở châu Âu... đã ký kết với Tập đoàn công nghiệp đóng tàu thuỷ Việt Nam đóng mới các tàu biển chở hàng, công suất lớn, trị giá hàng tỉ USD. Các hình thức liên kết kinh tế khác như gia công hàng dệt may, sản xuất chế biến sữa, đồ uống rượu, bia, nước giải khát, dược phẩm, dụng cụ y tế, thực phẩm cao cấp, ngân hàng, bảo hiểm... năm 2010 cũng không ngừng mở rộng nhằm tận dụng lợi thế về nguyên liệu và nhân công rẻ của các doanh nghiệp Việt Nam với máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, chuyên gia lành nghề của các doanh nghiệp EU.
Quan hệ hợp tác kinh tế của EU với Việt Nam năm 2010 còn phát triển trên lĩnh vực viện trợ phát triển. Tổng số vốn ODA của EU dành cho Việt Nam năm 2010 lên tới 1,0 tỉ USD, đứng thứ 2 sau Nhật Bản. EU là nhà viện trợ không hoàn lại lớn nhất của Việt Nam năm 2010 thông qua nhiều dự án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nâng cấp kết cấu hạ tầng miền núi, giáo dục đào tạo, y tế và các chương trình phát triển xã hội khác. Nhiều dự án hỗ trợ thuộc nhiều lĩnh vực kinh tế của các nước như Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Điển, Pháp, Đức, đã phát huy tác dụng tích cực và hiệu quả trong năm 2010 và các năm tới.
Kết quả hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư và hỗ trợ vốn ODA năm 2010 đã nâng quan hệ kinh tế Việt Nam - EU lên tầm cao mới, góp phần quan trọng vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đồng thời biến EU trở thành đối tác chiến lược trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, so với tiềm năng và thế mạnh của EU, những kết quả đó còn khiêm tốn và chưa đều. Cơ cấu vốn FDI cũng không đồng đều, trong đó chủ yếu là Hà Lan và các Quần đảo thuộc Anh, còn lại của 20 nước không có dự án đầu tư mới.
Những chuyển biến tích cực trong quan hệ đầu tư, hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam - EU trong năm 2010 là kết quả của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó quan trọng nhất là xuất phát từ hoạt động xúc tiến thương mại và đầu tư của cả Việt Nam và EU phù hợp với bối cảnh mới. Quan hệ đối tác bình đẳng, hợp tác toàn diện, lâu dài và tin cậy vì hoà bình và phát triển đã trở thành hiện thực giữa Việt Nam - EU năm 2010 và là điểm tựa cho các năm tới với nhiều triển vọng tốt đẹp.
3. Triển vọng năm 2011
Triển vọng phát triển quan hệ kinh tế Việt Nam- EU năm 2011 chịu tác động của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài. Các yếu tố bên trong gồm triển vọng hồi phục kinh tế của EU và Việt Nam. Thứ đến là các hiệp định làm cơ sở pháp lý cho sự phát triển của quan hệ kinh tế Việt Nam - EU đã có thể ký kết trong năm 2011.
EU kỳ vọng quan hệ với Việt Nam sẽ trở nên sâu sắc hơn trên cơ sở hai dấu mốc lớn sắp diễn ra trong quan hệ giữa hai bên. Đó là việc chuẩn bị ký kết chính thức Hiệp định đối tác và hợp tác EU - Việt Nam (PCA) và đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA).
PCA là hiệp định tổng thể mở ra cơ hội hợp tác trên phạm vi rộng lớn hơn, toàn diện hơn giữa Việt Nam - EU sau 20 năm quan hệ. Điểm nổi bật của PCA là hai bên thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực mới như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp, ngăn ngừa và giảm nhẹ thiên tai, văn hóa, du lịch, môi trường, y tế, năng lượng, giao thông... Với PCA, Việt Nam và EU cũng sẽ đẩy mạnh hợp tác trên các diễn đàn quốc tế, giải quyết các vấn đề toàn cầu để bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế.
Với FTA, Việt Nam và EU năm 2010 đã thống nhất ở cấp cao về việc khởi động các vòng đàm phán. Hiện hai bên đang chuẩn bị về mặt kỹ thuật để việc đàm phán có thể chính thức bắt đầu trong năm 2011. Đại sứ Xin Đoy (Sean Doyle) cho biếtm EU muốn quá trình đàm phán với Việt Nam được khởi động “càng nhanh càng tốt”. FTA song phương hứa hẹn sẽ đem lại lợi ích thương mại, kinh tế lớn cho cả hai bên, trong đó có việc giải quyết những rủi ro gây tổn hại lợi ích như chống bán phá giá. EU lưu ý ba vấn đề lớn trong đàm phán lợi ích thương mại tự do với Việt Nam: ổn định thương mại, ưu tiên cho dịch vụ và các quy định, luật lệ thương mại tốt.
Đại sứ Hung-ga-ry (Hung-ga-ry chính thức giữ chức Chủ tịch luân phiên nội khối của liên minh này nửa đầu năm 2011) tại Việt Nam, ông La-dơ-lô Vi-di (László Vizi) khẳng định các triển vọng hợp tác rộng mở giữa EU và Việt Nam là rất sáng sủa.
Với kết quả đã đạt được trong năm 2010 và những yếu tố thuận lợi trong năm nay, dự báo tốc độ tăng trưởng thương mại Việt Nam - EU năm 2011 sẽ đạt tăng 10%-15%, vốn FDI tăng 15-20%./.
Những nỗ lực vượt “ải” đói, nghèo  (01/02/2011)
Chiến lược đối ngoại của Nga năm 2011  (01/02/2011)
Đã tới lúc cần tư duy lại, thay đổi và cải tổ thế giới  (31/01/2011)
Mừng Đảng, mừng Xuân, mừng đất nước đổi mới  (31/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm