Tiếp tục thúc đẩy thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
14:33, ngày 18-01-2013
TCCSĐT - Qua gần 3 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2010 - 2020 đã thu được những kết quả tích cực, đồng thời cũng bộc lộ những khó khăn, bất cập ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững các tiêu chí. Phương thức xây dựng NTM cần bổ sung những quan điểm phát triển cộng đồng: Nhà nước hỗ trợ, doanh nghiệp và người dân thực hiện sáng tạo, lấy mối quan hệ lợi ích các bên liên quan để duy trì và nâng cao chất lượng các tiêu chí.
I. Kết quả thiết thực
Chương trình NTM được Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT) và Ban Kinh tế Trung ương Đảng khởi xướng vào năm 2001. Theo đánh giá của Ban chỉ đạo Trung ương, Chương trình xây dựng thí điểm mô hình NTM tại 11 xã trên 11 tỉnh, thành phố đã thu được một số kết quả khả quan:
Thu nhập của người dân tăng cao hơn, khoảng 62% so với trước đây, đến tháng 3-2011 có nhóm xã đạt mức thu nhập bình quân đầu người/năm từ 20 triệu đồng (xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang, Trà Vinh) đến 24,2 triệu đồng (xã Tân Thông Hội, quận 7, Tp. Hồ Chí Minh).
Theo lợi thế địa phương, các xã đã xây dựng mô hình sản xuất hiệu quả như: xã Thanh Chăn (tỉnh Điện Biên) có vùng sản xuất gạo đặc sản thương hiệu “gạo Điện Biên” rộng 12 ha, tạo được vùng sản xuất chuyên cây vụ đông trên 50 ha, đưa cây ăn quả vào 12,5 ha vườn; Xã Tân Thông Hội sản xuất rau sạch, hoa, cây cảnh, chăn nuôi bò sữa, đã nâng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân tại xã lên 177 triệu đồng/ha (tăng 25% so với năm 2009); Tổng cục Dạy nghề đã phối hợp với Trung tâm khuyến nông các tỉnh mở 100 lớp dạy nghề cho 7.200 lượt nông dân của 11 xã điểm theo đúng nhu cầu của từng địa phương. Song song đó là thành lập và củng cố các hợp tác xã, câu lạc bộ khuyến nông, tổ tín dụng, tổ vay vốn, tổ hợp tác, trang trại sản xuất,... giúp người dân có thêm kiến thức, kinh nghiệm qua việc giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và cùng hợp tác sản xuất. 11 xã điểm đã đạt được từ 15 - 18 tiêu chí theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16-4-2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Từ 11 xã được chọn làm thí điểm, đến nay số xã tham gia vào Chương trình xây dựng NTM đã lên tới hàng nghìn. Sau 10 năm thử nghiệm, Chương trình xây dựng NTM đã được phát triển thành chương trình quốc gia được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4-6-2010 thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 5-8-2008 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa X về “nông nghiệp, nông dân và nông thôn”.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM tại Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện chương trình tổ chức tại Vĩnh Phúc ngày 25-9-2012, cả nước đã có 2.436/5.855 xã đã phê duyệt đề án xây dựng NTM, đạt 42%; ngân sách Trung ương hỗ trợ cho 30 tỉnh phía Bắc (trừ Tp. Hà Nội) là 2.054 tỷ đồng, trong đó, năm 2012 là 1.110,3 tỷ đồng, tăng 17,6% so với năm 2011; 21/31 tỉnh bố trí ngân sách địa phương với tổng kinh phí 16.641 tỷ đồng, tập trung chủ yếu vào xây dựng kết cấu hạ tầng và đào tạo. Một kết quả đáng chú ý, các địa phương cả nước đã xây dựng được gần 5.000 mô hình sản xuất (nâng cao giá trị thu nhập từ 20-25%), nhiều tỉnh phát động phong trào dồn điền, đổi thửa gắn với quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa, đưa cơ giới hóa vào đồng ruộng,…
Báo cáo tổng hợp từ các địa phương cho thấy, ngoài 11 xã điểm đã đạt từ 15-18 tiêu chí, còn có thêm 32 xã đạt từ 16 - 18 tiêu chí. Tuy nhiên, theo rà soát từ 2.377/9.084 xã đăng ký phấn đấu xã đạt nông thôn mới vào năm 2015, mới có 9 xã (chiếm 0,1%) đạt 18 tiêu chí, trong đó đều chưa đạt tiêu chí cơ cấu lao động.
Kết quả trên khẳng định chủ trương, chính sách xây dựng NTM của Đảng, Nhà nước đã được triển khai tích cực, trở thành chủ đề “nóng” ở cả cấp tỉnh, huyện và xã, nông dân quan tâm đóng góp ý kiến xây dựng, giám sát triển khai.
Chương trình xây dựng NTM đã thành công bước đầu và đạt được một số kết quả quan trọng về kinh tế - xã hội và về kinh nghiệm tổ chức chỉ đạo của các ngành, các cấp. Chủ trương lấy xã làm điểm xuất phát để phát triển NTM là phù hợp với yêu cầu và điều kiện nước ta hiện nay, đáp ứng được nguyện vọng của dân cư nông thôn. Xã là cấp hành chính cuối cùng, có tư cách pháp lý để triển khai các hoạt động kinh tế - xã hội. Ban chỉ đạo các cấp đã bước đầu xác định được những cơ chế, chính sách cần đổi mới như phân cấp đầu tư xây dựng cơ bản cho huyện và xã, phát huy dân chủ cơ sở trong xây dựng NTM, chính sách đất đai và phát triển hạ tầng nông thôn và giải pháp cho dồn điền, đổi thửa để phát triển sản xuất, cơ chế, chính sách tài chính, cơ chế quản lý xây dựng cơ bản các cơ sở hạ tầng phù hợp với chính quyền cấp xã trong xây dựng NTM,...
II. Một số vấn đề bất cập và hướng tháo gỡ
1. Về cụm từ “nông thôn mới”
II. Một số vấn đề bất cập và hướng tháo gỡ
1. Về cụm từ “nông thôn mới”
Một số nghiên cứu cho rằng, sự “mới” của nông thôn ở đây là mới về 19 tiêu chí đánh giá sự phát triển NTM ở xã theo Quyết định 491/QĐ-TTg. Đây là bộ tiêu chí đa ngành và phù hợp. Tuy nhiên, nội dung của mỗi tiêu chí sẽ sinh động, phong phú về kết quả và phương thức thực hiện nếu có thể được tham khảo kinh nghiệm các quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan.
Nhật Bản, Thái Lan chú trọng đến sản phẩm cụ thể của chương trình, lấy mô hình mỗi làng một sản phẩm làm nòng cốt xây dựng nông thôn mới, đã phục hồi nghề truyền thống, cấy nghề mới, thông qua sản phẩm đã gắn kết khu vực thành thị và công nghiệp với nông thôn - thực chất là giải quyết vấn đề đầu tư và tiêu thụ nông sản, sản phẩm công nghiệp nông thôn.
Trung Quốc quan tâm đến công nghiệp hương trấn nhằm giải quyết nhu cầu sản phẩm ở địa phương, tạo việc làm và hướng vào xuất khẩu biên mậu.
Hàn Quốc với phong trào xây dựng làng mới (SU) với 3 tiêu chí: cần cù, tự lực vượt khó, và hợp tác với mô hình mỗi công ty gắn kết lâu dài với một làng.
Các quốc gia trên đều chú trọng xây dựng mô hình hợp tác xã nông nghiệp và dịch vụ bên cạnh các loại hình doanh nghiệp khác ở nông thôn, luôn luôn đổi mới phương thức hỗ trợ vốn, công nghệ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân (ví dụ, Thái Lan có phong trào thực phẩm sạch để nước Thái thành bếp ăn toàn thế giới), lấy sản xuất ở nông thôn làm tiêu chí phát triển bền vững.
2. Về bộ tiêu chí đánh giá NTM
Các tiêu chí đánh giá thể hiện ở Quyết định 491/QĐ-TTg ngày16-4-2009 của Chính phủ chưa thật phù hợp với tình hình thực tế ở vùng miền, đặc điểm văn hóa - xã hội của từng cộng đồng cư dân nông thôn.
Các tiêu chí về xây dựng mô hình NTM tập trung nhiều vào các hạng mục hạ tầng (phần cứng) hơn là đầu tư vào các mục phi vật thể (phần mềm) như phát triển kinh tế, phát triển tổ chức, các vấn đề xã hội, phát triển con người. Giai đoạn từ 2010 - 2020, tiêu chí phần cứng là quan trọng được đo đếm theo hướng dẫn của các bộ quản lý ngành, nhưng ngay từ bây giờ và đến sau năm 2020, ngoài việc duy tu, nâng cấp “phần cứng”, sẽ tập trung sâu hơn vào “phần mềm” với những yêu cầu rất cao ở tiêu chí thứ 10 đến 17 đó là tổ chức sản xuất, văn hóa - xã hội, môi trường, theo đó phải quy hoạch chi tiết, sửa đổi để mỗi hạng mục công trình không phải “phá đi làm lại” rất lãng phí.
Được biết Bộ NN & PTNT đã dự thảo sửa đổi Thông tư 54, thay đổi nội dung phương pháp xác định 19 tiêu chí. Cách làm này cho thấy, các tiêu chí NTM sẽ được thay đổi theo giai đoạn, phù hợp với đặc điểm của địa phương và xu thế phát triển nông nghiệp nông thôn và đời sống nông dân ở các nước công nghiệp phát triển.
3. Về cách tiếp cận khi triển khai chương trình
3. Về cách tiếp cận khi triển khai chương trình
Khi triển khai Chương trình NTM, phần lớn các địa phương vẫn áp dụng theo cách tiếp cận truyền thống từ trên xuống. Nghĩa là Chương trình được khởi xướng từ bên ngoài là chính, có tính áp đặt, tỉnh, huyện chọn xã điểm, tổ chức mời tư vấn xây dựng đề án và quy hoạch, phê duyệt, cân đối ngân sách, cung cấp nguồn lực, tổ chức chỉ đạo triển khai. Cách tiếp cận này bộc lộ một số khiếm khuyết sau đây:
- Dễ làm khó lảng: Một số địa phương đã chọn những xã đã được đầu tư, có kinh tế khá hơn, chính quyền và nhân dân xã đó cũng hăng hái vận động, đăng ký. Những mô hình này ít đại diện cho số đông các xã trung bình, nghèo và vùng nghèo, khó được nhân rộng ra. Nếu xã nghèo học tập sẽ cần một thời gian dài, và nguồn chi phí cũng không hề nhỏ.
- Chất lượng quy hoạch thấp: Do quy hoạch theo các khuôn mẫu sẵn có, nên chất lượng quy hoạch kém. Mặt khác, quy hoạch xây dựng NTM còn bao gồm quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch khu dân cư,... Thế nhưng, hầu hết các đơn vị tư vấn không có kiến thức đa ngành, thiếu liên kết, chưa có kinh nghiệm thực hiện quy hoạch này. Mặt khác, chủ đầu tư là Ban quản lý xã cũng không có cán bộ am hiểu về công việc này. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng quy hoạch thấp.
Vấn đề đào tạo cán bộ dự án của địa phương theo hướng chuyên nghiệp là cần thiết. Ban chỉ đạo cần soạn tài liệu chuyên đề cho cán bộ dự án ở cấp xã, nắm chắc những nội dung căn bản của quá trình dự án, đặc biệt là kỹ năng khơi dậy ý kiến, vốn, phương thức làm của cộng đồng, chú ý giao cho một số tổ chức nhận duy tu, bảo quản, khai thác hiệu quả công trình, ví dụ như nhà văn hóa, chợ, công trình thủy lợi, điện, vệ sinh môi trường có thể thu phí duy tu khi sử dụng.
4. Thiếu vốn đầu tư, chưa phát huy cao độ nội lực của địa phương và của dân
Nhu cầu vốn của các xã làm mô hình NTM thường lớn, vượt quá khả năng đầu tư của huyện và tỉnh. Các địa phương khi xây dựng đề án ít tính đến nguồn lực của địa phương, ngại phát huy đóng góp của dân vào những công trình có thể trực tiếp sinh lợi, như tu sửa nhà ở, chuồng trại chăn nuôi, công trình nước sạch, vệ sinh, nông cụ cơ giới,... Nếu tình hình này tiếp tục diễn ra sẽ phát sinh tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước. Đó là biểu hiện không lành mạnh, không công bằng với các xã chưa được nằm trong diện thí điểm xây dựng mô hình.
Các địa phương chủ yếu tập trung vào xây dựng công trình mới, ít quan tâm đến tu sửa, nâng cấp, quản lý và vận hành các công trình đã có. Trong cơ cấu đầu tư công, tập trung quá nhiều vào hạ tầng cơ sở, chưa chú trọng đầu tư vào năng lực sản xuất và các giải pháp để phát triển kinh tế, tạo việc làm và tăng thu nhập.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia nêu trên, để xây dựng NTM bền vững cần có tổ chức đảm nhiệm đó là doanh nghiệp kết nghĩa, hợp tác xã, tổ hợp tác, doanh nghiệp cổ phần của người dân nhưng không chia lợi nhuận. Trong đó có nguồn vốn từ Quỹ quốc gia.
5. Chưa có sự phối hợp, kết hợp tốt giữa các cấp và năng lực điều phối lồng ghép của các ngành còn hạn chế
Đề án phát triển NTM đã được phê duyệt chưa được cụ thể hóa hữu cơ vào kế hoạch hành động của các ngành, các cấp. Một trong những thách thức lớn nhất hiện nay trong xây dựng NTM là nhận thức của phần đông cán bộ các cấp về nội dung, cách triển khai còn mang tính hành chính, chạy theo phong trào lấy thành tích mà không lấy cư dân nông thôn làm trung tâm cho phát triển. Một bộ phận cán bộ cơ sở còn ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của cấp trên. Yêu cầu của chương trình là lồng ghép, bên cạnh chương trình NTM còn nhiều chương trình khác cùng được triển khai nhưng tiêu chí này được thực hiện chưa cân đối, dẫn đến có xã không có vốn hoạt động, có xã lại trùng lắp nhiều hoạt động.
Từ thực tế đó, Ban chỉ đạo cấp xã cần công tâm, cùng với người dân bàn thảo để chọn dự án ưu tiên, tạo “cú hích” vật chất và tinh thần cho người dân.
6. Cán bộ cộng đồng và người dân địa phương thiếu kỹ năng quản lý và giám sát các công trình
Mặc dù có quy định về giám sát cộng đồng trong đó Mặt trận Tổ quốc là nòng cốt nhưng khi triển khai, cán bộ địa phương gặp nhiều khó khăn trong quản lý, giám sát do không được cung cấp thông tin hoặc chỉ là khách mời tham gia “động thổ” hoặc “phát biểu bế mạc”.
Kinh nghiệm hay ở một số địa phương, các đoàn thể như Hội Cựu chiến binh, Phụ nữ, Thanh niên, Người cao tuổi,... đều có những thành viên có năng lực, tích cực nhận trách nhiệm giám sát theo tài liệu công khai của dự án.
Chương trình NTM ở nước ta đã và đang được triển khai trong cả nước. Tuy đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng chương trình còn có sự bất cập cần sửa đổi,... Còn 8 năm mới đến hạn chót của chương trình, những xã đạt tiêu chí sẽ gặp thách thức bảo đảm nội dung chất lượng thực sự bền vững của các tiêu chí đó. Ngân sách nhà nước còn phải chi cho nhiều xã tiếp sau, do vậy sự đóng góp trí tuệ sáng tạo, nguồn vốn công khai, và sự điều hành dân chủ của cộng đồng là yếu tố phát triển nông thôn mới bền vững. Quyết định 2406/QĐ-TTg ngày 18-12-2011 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định “Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 trên cơ sở phát huy vai trò của cộng đồng dân cư là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách, cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân nông thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện”./.
“Củng cố niềm tin của dân đối với Đảng và chế độ”  (18/01/2013)
Văn hóa từ chức  (18/01/2013)
Khu nông nghiệp công nghệ cao Hậu Giang có ý nghĩa quốc gia  (18/01/2013)
“Thái Bình cần nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”  (17/01/2013)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên