Hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho đối tượng chính sách, người nghèo, nhất là ở nông thôn và vùng đô thị hóa
TCCS - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là thông qua giáo dục, đào tạo, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người lao động, là chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước và hội nhập, là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện chủ trương của Đảng về hỗ trợ học nghề và tạo việc làm, trong những năm qua, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực dạy nghề và việc làm ngày càng hoàn thiện; nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, lao động nông thôn, lao động thuộc diện chính sách xã hội, lao động là dân tộc thiểu số học nghề và tạo việc làm được thực hiện như: dạy nghề miễn phí cho người nghèo; hỗ trợ học phí học nghề, ngoại ngữ, kiến thức trước khi đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ vốn sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp nhận lao động thuộc vùng thu hồi đất nông nghiệp vào làm việc; hỗ trợ kinh phí học nghề cho đối tượng là người nghèo, đối tượng chính sách,...
Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình, dự án lớn trong phạm vi cả nước như: Chương trình Mục tiêu quốc gia về Việc làm, Chương trình Mục tiêu quốc gia Giảm nghèo, Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giáo dục - Đào tạo, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135).
Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện có tỷ lệ hộ nghèo nhất nước (trên 50%), trong đó có chính sách và dự án hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập; phê duyệt và triển khai Đề án hỗ trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo bền vững; Đề án dạy nghề cho lao động nông thôn,... Các chính sách, chương trình, dự án trên tập trung chủ yếu vào đối tượng lao động nông thôn, lao động diện thu hồi đất cho phát triển các khu công nghiệp và đô thị, lao động thuộc hộ nghèo, đối tượng chính sách và đã đạt được những kết quả nhất định.
Song song với đẩy mạnh tạo việc làm trong nước, chúng ta cũng tích cực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng. Từ năm 2006 đến nay, đưa khoảng 360 nghìn lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng, nâng tổng số lao động đang làm việc ở nước ngoài lên gần 500 nghìn lao động, chủ yếu là lao động thanh niên nông thôn (chiếm từ 80 - 90%). Đến nay, đã có trên 80 nghìn lao động là đối tượng thuộc hộ nghèo, đối tượng chính sách xã hội được vay tổng số 1.694 tỉ đồng, với mức vay bình quân hơn 20 triệu đồng/người để chi trả các chi phí đi làm việc ở nước ngoài; trên 6.500 lao động thuộc các huyện nghèo ở 18 tỉnh đã đăng ký đi làm việc, trong đó có khoảng 6.000 lao động được tuyển chọn; trên 2.500 lao động đã xuất cảnh sang các thị trường như: Ly-bi, Ma-lai-xi-a, UAE, Hàn Quốc, Nhật Bản...
Đặc biệt, thực hiện chủ trương của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 với mục tiêu đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm, nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đến nay, hầu hết các địa phương đã ban hành Chỉ thị về đào tạo nghề cho lao động nông thôn và đưa công tác đào tạo nghề vào nghị quyết của các cấp ủy. Nhiều hoạt động trong khuôn khổ Đề án cũng được triển khai rộng khắp như: tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; điều tra khảo sát và dự báo nhu cầu học nghề cho lao động nông thôn (đến tháng 6/2010 có 44/63 địa phương đã tiến hành); thí điểm mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa (nuôi trồng thủy sản, vùng chuyên canh cây nông nghiệp, cây công nghiệp,...) và phi nông nghiệp (đặt hàng một số tập đoàn, tổng công ty, khu công nghiệp, cơ sở đào tạo dạy nghề cho lao động nông thôn sang làm công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn hoặc làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất,...); phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề và cán bộ quản lý dạy nghề; mở rộng, thành lập mới các cơ sở dạy nghề, đặc biệt là Trung tâm dạy nghề cấp huyện...
Tuy nhiên, những kết quả đạt được chỉ là bước đầu. Hoạt động dạy nghề và tạo việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông thôn và vùng đô thị hóa vẫn còn một số hạn chế. Các chính sách về hỗ trợ học nghề và việc làm ở khu vực phi chính thức, khu vực nông thôn chưa được quy định cụ thể. Việc làm cho lao động nông thôn vẫn là một vấn đề bức xúc, tình trạng thiếu việc làm của lao động nông thôn khá phổ biến. Giải quyết việc làm cho các nhóm lao động yếu thế còn hạn chế, chưa có các chương trình, chính sách cụ thể, chi tiết; đào tạo nghề ngắn hạn (dưới 3 tháng) chiếm 80%. Việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo, đối tượng chính sách tại một số địa phương còn chậm; đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; các nguồn lực hỗ trợ học nghề và tạo việc làm mới chỉ đáp ứng 40 - 50% nhu cầu của người dân, đạt 70 - 75% kế hoạch...
Qua thực tiễn hỗ trợ học nghề và tạo việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam trong giai đoạn qua có thể thấy rằng, việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng, nhưng phải căn cứ vào tình hình thực tiễn của từng địa phương để có những bước đi phù hợp, bảo đảm hiệu quả cao nhất. Nâng cao nhận thức, năng lực, trách nhiệm cho các cấp ủy, chính quyền và người dân có ý nghĩa then chốt, quyết định sự thành công; phải đưa người lao động vào vị trí trung tâm, khuyến khích sự năng động và chủ động trong học nghề và tạo việc làm cho bản thân và cho người khác, không thụ động, trông chờ vào Nhà nước. Để thực hiện tốt công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, người nghèo và đối tượng chính sách, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, hoàn thiện đồng bộ, kịp thời hệ thống pháp luật về thị trường lao động. Nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Luật Tiền lương tối thiểu; nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung và ban hành các chính sách, hướng dẫn triển khai thực hiện các đề án, chính sách về dạy nghề và việc làm cho lao động nông thôn, cho lao động vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; nghiên cứu xây dựng các chính sách về trợ cấp việc làm, bảo đảm an toàn việc làm; chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho các đối tượng yếu thế trong xã hội.
Hai là, xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề giai đoạn 2011 - 2015 với các dự án, hoạt động: đổi mới và phát triển dạy nghề, dạy nghề cho lao động nông thôn; cho vay tạo việc làm từ Quỹ Quốc gia về việc làm; đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ phát triển thị trường lao động; nâng cao năng lực cán bộ, giám sát đánh giá, thông tin truyền thông.
Ba là, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án Dạy nghề cho lao động nông thôn theo hướng đồng bộ, bền vững và hiệu quả, gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn dạy nghề và tạo việc làm, có các chính sách thích hợp để thu hút lao động nông thôn vào làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất,....; xây dựng cộng đồng trách nhiệm giữa các bên có liên quan như Nhà nước - doanh nghiệp - cơ sở dạy nghề - người học trong tổ chức triển khai; rà soát quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề cho lao động nông thôn, thành lập Trung tâm dạy nghề ở những huyện chưa có trung tâm; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy nghề và cán bộ quản lý cả về chất lượng và số lượng.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động; dự báo cung - cầu lao động trong ngắn hạn và dài hạn theo quý, 6 tháng, hằng năm phục vụ cho việc hoạch định chính sách về dạy nghề và việc làm nói chung, thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường nói riêng; nâng cao năng lực các trung tâm giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm để các đối tượng lao động ở vùng nông thôn vùng sâu, vùng xa có cơ hội tiếp cận thông tin thị trường lao động, từ đó tìm được việc làm phù hợp với bản thân.
Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về dạy nghề và tạo việc làm. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động thông tin tuyên truyền sâu rộng trong các cấp, các ngành và người dân về các chủ trương, chính sách, thông tin việc làm, thị trường lao động và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài./.
Những nét mới trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc hiện nay  (03/11/2010)
Căng thẳng mới trong câu chuyện cũ  (03/11/2010)
Căng thẳng mới trong câu chuyện cũ  (03/11/2010)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm