Hướng đi mới cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tại tỉnh Thừa Thiên - Huế trong năm 2011
TCCSĐT - Doanh nghiệp xuất khẩu lao động của cả nước nói chung và của tỉnh Thừa Thiên - Huế nói riêng luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng góp phần giải quyết việc làm, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước và tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc tế của Việt Nam với các nước.
Theo số liệu báo cáo từ các doanh nghiệp, tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài trong năm 2010 là 85.564 người. Trong đó số lao động xuất khẩu sang Đài Loan là 28.499 người; xuất khẩu sang Hàn Quốc là 8.628 người; xuất khẩu sang Nhật Bản: 4.913 người; sang Ma-lai-xi-a: 11.741 người; sang Lào: 5.903 người; sang Các Tiểu Vương quốc A-rập Thống nhất (UAE): 5.241 người, sang Li-bi (Libya): 5.242 người, sang A-rập Xê-út: 2.729 người, sang Ma-cao: 3.124 người, sang Ba-ren (Bahrain): 1.204 người, sang Cam-pu-chia 3.615 người và các thị trường khác là 4.725 người.
Ngành ngành phát huy...
Để phát huy thế mạnh của ngành xuất khẩu lao động, tại tỉnh Thừa Thiên - Huế, các cấp chính quyền, Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động, ngành lao động thương binh xã hội đã dành sự quan tâm đặc biệt đến các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động của tỉnh đã triển khai các chế độ, chính sách, các thông tin trong hoạt động xuất khẩu lao động đến các cán bộ chủ chốt, hướng dẫn các doanh nghiệp về tuyển lao động tại xã, phường. Để có cơ chế quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đạt hiệu quả, Sở lao động thương binh và xã hội đã tham mưu ban hành một số văn bản làm cơ sở cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động hoạt động; giới thiệu, tuyên truyền đối với những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Bên cạnh đó, Sở cũng chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp với các doanh nghiệp mở hội nghị và tuyên truyền sâu rộng về hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp để tất cả những người lao động đang có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài quan tâm, theo dõi và lựa chọn. Ngoài ra, Sở lao động thương binh và xã hội cũng quy định chế độ báo cáo định kỳ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn.
Nhà nhà phát huy...
Với sự ủng hộ trên, từ năm 2000 đến năm 2006, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động chủ yếu tập trung vào thị trường Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật bản và thị trường Lào, những năm tiếp theo, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã mở rộng thị trường sang các nước như Qua-ta, Đu-bai, Li-bi, U-crai-na, A-rập, Nga, Ma-cao và một số thị trường của các nước khác. Không những thế, khi đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đã tổ chức giáo dục định hướng cho người lao động, bồi dưỡng các kiến thức về pháp luật của Việt Nam và phong tục tập quán, văn hoá của các nước bạn cho người lao động.
Một số doanh nghiệp đã ký liên kết với ngân hàng chính sách xã hội tỉnh, phối hợp với ngân hàng các huyện hỗ trợ hướng dẫn cho người lao động các thủ tục vay vốn tại Ngân hàng chính sách xã hội không cần thế chấp thẻ đỏ, đối với hộ nghèo doanh nghiệp hỗ trợ làm hộ chiếu miễn phí tiền môi giới cho người lao động. Một số doanh nghiệp thực hiện việc quản lý người lao động ở nước ngoài thông qua việc thường xuyên liên lạc với người lao động hoặc thông qua các cộng tác viên sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về thị trường lao động cũng như tình hình thực tế của người lao động để có những giải pháp kịp thời cho doanh nghiệp hoặc cho người lao động.
Được sự phối hợp của Ban chỉ đạo xuất khẩu lao động tỉnh, các huyện, cơ quan quản lý lao động cấp tỉnh, cơ quan công an, ngân hàng chính sách xã hội trong hoạt động xuất khẩu lao động, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký hợp đồng cung ứng lao động; về hợp đồng bảo lãnh; về tiền ký quỹ; tiền dịch vụ; tiền môi giới; về công tác quản lý lao động thực hiện hợp đồng ở nước ngoài và thanh lý hợp đồng lao động khi về nước; về chính sách chế độ cho những người lao động bị tai nạn, bị bệnh tật, bị ốm đau hoặc bị chết do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan.
... nhưng kết quả chưa như mong muốn
Tuy nhiên, thị trường xuất khẩu lao động năm 2010 tại Thừa Thiên Huế lại không phải là một thị trường không hấp dẫn người lao động đi xuất khẩu lao động. Nếu như năm 2008, 2009 Hàn Quốc là thị trường dẫn đầu trong việc thu hút người lao động Việt Nam đi làm việc thì năm 2010 Ma-lai-xi-a là thị trường sôi động thu hút được 63/101 người lao động đi làm việc. Trong các đơn vị đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài thì Công ty cổ phần Traenco là công ty dẫn đầu trong việc xuất khẩu lao động đưa 79/101 người; Trung tâm dịch vụ việc làm đưa 15/101 người; Công ty cổ phần nhân lực và thương mại Vinaconexmec có trụ sở chính tại Đà Nẵng đưa 5/101 người. Trong đó có những đơn vị không đưa được người lao động nào đi làm việc ở nước ngoài như Sovilaco; Enlexco; Airseco. Các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài chủ yếu tập trung vào các thị trường như Ma-lai-xi-a; Hàn Quốc; Nhật Bản; Li-bi; Qua-ta; Đài Loan; A-rập Xê-út và các thị trường khác.
Nhìn thẳng vào thực tế...
Có thể nói, các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động trên địa bàn Thừa Thiên Huế đã từng bước mở rộng thị trường để người lao động có nhiều cơ hội lựa chọn phù hợp với trình độ tay nghề và điều kiện của bản thân, song kết quả đạt được vẫn không như mong muốn. Nguyên nhân là vì hiện các doanh nghiệp xuất khẩu lao động lao động tại tỉnh Thừa Thiên Huế còn có những khó khăn và hạn chế nhất định.
Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh về hoạt động xuất khẩu lao động còn nhiều hạn chế gây ra khó khăn cho doanh nghiệp trong quá trình áp dụng như: pháp luật chưa quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động; chưa quy định cụ thể các khoản tiền dịch vụ doanh nghiệp được thu, không được thu; chưa quy định cụ thể các khoản chi làm thủ tục ban đầu đi xuất khẩu lao động như: tiền làm hồ sơ lý lịch, hộ chiếu, khám sức khoẻ, tiền chứng chỉ, chi phí dạy nghề, chi phí tập trung bay (tiền ở, tiền vé xe)...
Ngoài ra, pháp luật cũng chưa có một hệ thống văn bản quy định cụ thể các nội dung liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động như: quy định về tiêu chuẩn, số lượng giáo viên dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động; quy định về trang thiết bị phục vụ cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động; quy định về quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp khi doanh nghiệp giải thể, phá sản...
Thứ tư, đa số các doanh nghiệp đã khai thác thị trường làm việc tại Li-bi, U-crai-na, A-rập Xê-út, Ai Cập, Cô-oét nhưng các doanh nghiệp không đưa được nhiều lao động sang làm việc được tại các thị trường này vì các thị trường này yêu cầu đòi hỏi các lao động có tay nghề. Riêng thị trường dành cho nữ chỉ có Ma-lai-xi-a và Đài Loan.
Thứ năm, trình độ cán bộ tuyển lao động của nhiều doanh nghiệp còn hạn chế về năng lực, do đó các cán bộ này chưa chủ động xử lý công việc, chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền, công tác thông tin, tư vấn tuyển chọn và làm thủ tục xuất khẩu lao động.
... để tìm cho mình một hướng đi
Nhằm tạo bước tiến mới trong hoạt động xuất khẩu lao động lao động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, cần có sự thay đổi:
Thứ nhất, về phía các cơ quan nhà nước của tỉnh gồm (Ủy ban nhân dân, Sở lao động thương binh và xã hội) cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động;
Các cấp chính quyền cần xây dựng chính sách cho doanh nghiệp cũng như người lao động trong hoạt động xuất khẩu lao động và có sự phối hợp đồng bộ với cơ quan công an, ngân hàng chính sách để tạo điều kiện thuận lợi giải quyết nhanh các thủ tục như thủ tục xác nhận hồ sơ lý lịch, thủ tục làm chứng minh thư, thủ tục vay vốn, thủ tục làm hộ chiếu, thủ tục khám sức khoẻ và các thủ tục khác liên quan đến hoạt động xuất khẩu lao động;
Các cấp chính quyền cần xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện cho đối tượng cận nghèo và bộ đội xuất ngũ được vay tín chấp với lãi suất thấp để xuất khẩu lao động; Các cấp chính quyền cần xây dựng các trung tâm tư vấn pháp luật hỗ trợ cho các doanh nghiệp và người lao động trong việc cung cấp các thông tin cần thiết về tuyển dụng, làm thủ tục xuất khẩu lao động;
Ngoài ra, các cấp chính quyền cần phối hợp với doanh nghiệp xuất khẩu lao động để triển khai cụ thể mục tiêu hoạt động của hình thức xuất khẩu lao động, xây dựng niềm tin đối với người lao động.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước của tỉnh cần căn cứ vào tiềm năng và tình hình thực tế để giao chỉ tiêu kế hoạch về số lượng người đi xuất khẩu lao động đối với các huyện, thành phố. Các huyện, thành phố căn cứ vào kế hoạch được giao có biện pháp tổ chức bảo đảm hoàn thành chỉ tiêu. Các cấp, các ngành của tỉnh Thừa Thiên Huế cần xây dựng kế hoạch đánh giá các đơn vị tuyển dụng lao động không có hiệu quả và tiếp tục mời chào các đơn vị có tiềm lực, có thị trường tốt để tham gia vào việc tuyển dụng lao động tại địa phương.
Không chỉ thế, các cơ quan có thẩm quyền phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, thanh tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động của doanh nghiệp cũng như người lao động.
Thứ hai, để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu lao động, về phía các doanh nghiệp cũng cần:
Mở rộng thị trường xuất khẩu lao động
Ngoài việc duy trì các thị trường đã có hiện nay như Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, A-rập Xê-út, các doanh nghiệp cần phải có kế hoạch mở rộng thêm nhiều thị trường xuất khẩu lao động tiềm năng với nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau như thị trường Li-bi, Pháp, Ca-na-đa, Anh, Hy Lạp... Việc mở rộng các thị trường tiềm năng sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho người lao động lựa chọn cho mình một thị trường phù hợp với điều kiện của bản thân và gia đình người lao động. Đồng thời, người lao động sẽ có cơ hội lựa chọn các chế độ đãi ngộ và lựa chọn mức thu nhập thoả đáng.
Xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp về xuất khẩu lao động
Doanh nghiệp cần đầu tư nâng cấp các trang thiết bị kỹ thuật trong hoạt động đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động; doanh nghiệp cần phải xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi về năng lực và chuyên môn, giỏi về kỹ năng thực hành để truyền đạt tay nghề cho người lao động, đồng thời doanh nghiệp thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác xuất khẩu lao động vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu lao động.
Mở rộng quy mô và đa dạng các hoạt động của sàn giao dịch về xuất khẩu lao động
Doanh nghiệp cần phải cung cấp các thông tin cần thiết giới thiệu, quảng bá về doanh nghiệp, các thị trường lao động tiềm năng, các ngành nghề lao động, các chế độ đãi ngộ hấp dẫn để tạo niềm tin và thu hút số lượng người lao động tham gia vào hoạt động xuất khẩu lao động.
Quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các thị trường xuất khẩu lao động một cách sinh động, hiệu quả
Ngoài ra, công tác tuyên truyền là một yếu tố vô cùng quan trọng, nó được xem là một khâu trung gian gắn kết giữa các doanh nghiệp với người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Do đó, doanh nghiệp cần đổi mới các hình thức tuyên truyền, đổi mới nội dung tuyên truyền, phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá hình ảnh doanh nghiệp và các thị trường xuất khẩu lao động một cách sinh động, hiệu quả. Các doanh nghiệp cần đa dạng các hình thức tuyên truyền thông tin như việc tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ rơi, quảng cáo, lập các website...
Định hướng nguồn lao động và tuyển chọn nguồn lao động
Mặt khác, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch chuẩn bị nguồn lao động, đào tạo giáo dục định hướng nguồn lao động và tuyển chọn nguồn lao động đạt hiệu quả. Việc xây dựng nguồn lao động là một việc làm mang tính chiến lược trong hoạt động xuất khẩu lao động do đó doanh nghiệp phải có kế hoạch khai thác nguồn lao động hợp lý. Bên cạnh việc tận dụng nguồn lao động nhàn rỗi trong các địa phương, nguồn lao động từ bộ đội xuất ngũ, các doanh nghiệp cần có chính sách thu hút nguồn lao động có tay nghề cao, nguồn lao động từ những người học nghề và các doanh nghiệp phải có kế hoạch giáo dục định hướng, đào tạo ngoại ngữ cho nguồn lao động đó.
Công khai minh bạch tài chính, tạo niềm tin cho người lao động
Hơn thế nữa, các doanh nghiệp phải lập chế độ báo cáo tài chính công khai minh bạch, phải có hoá đơn, chứng từ rõ ràng khi thu phí của người lao động đồng thời doanh nghiệp phải công khai các khoản chi phí, lệ phí, dịch vụ cho người lao động. Doanh nghiệp phải xây dựng được đội ngũ cán bộ giỏi nghiệp vụ về kế toán và am hiểu pháp luật để giải thích cho người lao động hiểu rõ về các khoản phải nộp khi người lao động có yêu cầu. Điều đó góp phần tạo niềm tin cho người lao động, xây dựng được thương hiệu cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Thứ ba, về hệ thống pháp luật
Nhà nước cần phải sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật quy định cụ thể về các khoản tiền dịch vụ, tiền môi giới, tiền ký quỹ, các loại phí về xuất khẩu lao động; hợp đồng xuất khẩu lao động; quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động khi bị giải thể hoặc phá sản.
Không chỉ thế, pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động báo cáo, quy định việc thành lập chi nhánh của các doanh nghiệp dịch vụ, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ ngoại giao, Bộ công an trong việc thẩm định điều kiện hoạt động của các doanh nghiệp.
Ngoài ra, nhà nước cần quy định đầy đủ các hành vi vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động và chế tài xử lý đối với các hành vi này. Đồng thời nhà nước cần quy định tăng mức chế tài đủ mạnh áp dụng cho các chủ thể có hành vi vi phạm hoạt động xuất khẩu lao động.
Thiết nghĩ, để tạo hướng đi mới cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, ngoài sự quan tâm định hướng của các cấp, các ngành trong hoạt động xuất khẩu lao động, cần có sự phối hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa các cấp, các ngành với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động.Và đặc biệt, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động trong thời gian tới sẽ thiết lập một rào chắn an toàn tạo ra "sân chơi" cho doanh nghiệp thực hiện chức năng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nếu làm được điều đó chắc chắn trong thời gian tới thị trường xuất khẩu lao động ở Thừa Thiên Huế sẽ có những chuyển biến tích cực khẳng định "thương hiệu" về hoạt động xuất khẩu lao động./.
Tổng số đảng viên trong toàn Đảng tăng lên 3.636.158 đồng chí  (18/01/2011)
Việt Nam đóng vai trò quan trọng tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ nhất năm 2011  (18/01/2011)
Bạn bè quốc tế tiếp tục gửi điện mừng Đại hội XI Đảng ta  (18/01/2011)
Đại hội Thanh niên sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản  (18/01/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm